Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Duyên Sinh Các Pháp

02 Tháng Mười Một 201606:53(Xem: 7964)
Bốn Duyên Sinh Các Pháp
BỐN DUYÊN SINH CÁC PHÁP

Chân Hiền Tâm

BỐN DUYÊN SINH CÁC PHÁP

Thế giới này là thế giới Duyên khởi.

Nếu cái thấy đó là chân lý, nó phải mang tính phổ quát.Nếu mang tính phổ quát thì tất cả những gì ta đang thấy đây phải bị qui luật đó chi phối.Nhưng hiện thực thì không có gì tự sinh. Con bò không thể tự hiện thành con bò. Mọi xuất hiện đều cần đến điều kiện (nhân duyên). Xem ra, Tự sinh không mang tính phổ quát, chỉ là pháp xuất hiện theo duyên. Trong cái duyên là thiền định cộng với cái nhân là tập khí[3] của mỗi người, thế giới của tự thân xuất hiện. Tập khí của người này không phải là tập khí của người kia, nên cảnh người này thấy trong thiền định không nhất thiết là cảnh mà người kia phải thấy. Tùy duyên có pháp nên Tự sinh, Tha sinh v.v… vẫn không ra ngoài Duyên khởi.

Ngày nay, với cái nhìn của các nhà vật lý thiên văn hiện đại, việc cho có một vị thượng đến sinh ra muôn loài (Tha sinh) bị bác bỏ hoàn toàn.Vì thời gian xuất hiện đồng thời với không gian. Trong Giai Điệu Bí ẨnCon Người Đã Tạo Ra Vũ Trụ, giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói: “Vật lý hiện đại cho rằng thời giankhông gian được tạo ra đồng thời với vũ trụ. Khái niệm này không phải là mới.Ngay từ thế kỷ thứ IV sau công nguyên, chính thánh Augustin đã viết rằng thế giới không phải được tạo ra trong thời giankhông gian.Thật là khôi hài nếu nghĩ rằng đức Chúa Trời phải đợi một khoảng thời gian dài vô hạn rồi mới đột nhiên quyết định tạo ra vũ trụ. Cụm từ sáng tạo ra vũ trụ phỏng còn ý nghĩa gì nếu thời gian không tồn tại và chỉ xuất hiện cùng với vũ trụ?”.Cho nên, nếu thấy có thượng đế sinh ra muôn loài để hình thành nên tư kiến Tha sinh, thì cái thấy ấy cũng chỉ là cảnh giới tâm thức của vài người.Nó không mang tính phổ quát để hiện thành chân lý.Mọi thứ chỉ như ngủ rồi mộng. Mộng của người này không hẳn đã giống mộng của người kia.

Cộng sinh và Vô nhân cũng như thế.Chỉ là pháp tùy duyên, không mang tính phổ quát để có thể hiện thành thực lý, dù chỉ là thực lý ở thế gian.

BỐN DUYÊN SANH CÁC PHÁP

Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên. Tăng thượng duyên. Các pháp ở thế gian khi xuất hiện sẽ chịu sự chi phối của một, hai, ba hay cả bốn duyên đó. Tùy theo cách diễn tả tổng quát hay chỉ nhấn mạnh ở mặt tâm thức mà cách diễn giải có khác nhau, nhưng nghĩa lý thì không khác.

Nhân duyên

Trong Thập Nhị Môn Luận, Bồ-tát Long Thọ nói về Nhân duyên như sau: “Nhân duyên, là chỗ mà pháp từ đó sinh ra, đang từ đó sinh ra, sẽ từ đó sinh ra”. Do những yếu tố (điều kiện) nào đó mà một sự việc hay một sự vật (nói chung là mọi hiện tượng thuộc tâm hay vật) xuất hiện thì những yếu tố đó gọi là duyên, cũng gọi là nhân, cũng gọi là nhân duyên (đối với quả đã xuất hiện). Với điều kiện đó thì tất cả pháp hữu vi đều là pháp duyên sinh.

Lăng-già phân nhân duyên sinh thành hai loại: Nội duyênngoại duyên.

Ngoại duyên : Chỉ cho những gì thuộc phạm vi ngoại cảnh.

Đất, nước, nhân công v.v… là nhân duyên tạo ra bình (quả).

Sợi, nhân công, máy dệt v.v… là nhân duyên tạo ra vải.

Đó là phần nhân, duyên, quả được nói ở mặt đơn giản nhất.

Ở các lãnh vực như chính trị, xã hội, kinh tế, giáo dục, tâm lý, triết lý, văn hóa, nghệ thuật v.v… mọi ứng dụng của nó đều không ra ngoài Nhân quả.

Muốn có một kết quả tốt trong học tập, đòi hỏi người học phải học hành nghiêm túc (nhân), giáo viên phải có trình độ về chuyên môn v.v... (duyên).

Muốn biết về một cái chết, phải dựa vào khá nhiều yếu tố hoặc ít nhất là một điều kiện đưa đến cái chết đó.Không có việc tự nhiên mà chết. Thấy tự nhiên chết là do nhân duyên tạo ra cái chết đó vi tế hơn sự nhận thức của mình. Cũng tùy vào điều kiện cố ý hay sơ xuất mà tội trạng được định hình nhẹ hay nặng v.v...

Mọi thứ không ra ngoài Nhân duyên.

Đặc tính của pháp nhân duyên là dù «nhân» không thay đổi mà «duyên» thay đổi thì «quả» có thể thay đổi. Như xoài Hòa Lộc ngọt và thơm, nhưng mang trồng ở một vùng ở miền Bắc thì chua. Duyên thay đổi nên tính chất của quả đổi khác. Y vào tính chất đó, con người có thể thay đổi mọi việc theo ý mình dù ở lãnh vực nào, với điều kiệntìm ra đúng nguyên nhân của nó. Nói đúng hơn là tìm ra đúng liên hệ nhân quả của nó, và thay đổi cái nhân ấy.

Thế giới ngày trở nên phong phú và đa dạng là nhờ biết ứng dụng nhân - duyên - quả vào đời sống thuần thục.Nhân duyên hiện diện trong từng sự, từng việc. Mọi hành tác của con người đều không ra ngoài nhân duyên, nhưng thường là do tự phát theo kinh nghiệm hơn là nắm được thực lý chi phối thế giới này.

Nội duyên : Chỉ cho những loại duyên có liên quan đến tâm.[4] Như vô minh, ái, nghiệp v.v… là nhân duyên sinh ra ấm, giới, nhập.

Thân tâmhoàn cảnh mà một chúng hữu tình đang có đây, là kết quả của những gì mà chúng hữu tình đó đã tạo tác trong quá khứ, thông qua ba thứ thân, ngữ và ý, trong đó ý là kẻ chủ đạo. Những hành tác đó được các duyên tham, sân, si (phiền não chướng) hỗ trợ mà có cái thân phần đoạn như hiện nay xuất hiện.

Nhân - duyên - quả nói ở mặt này đòi hỏi ở người đời một niềm tin nhiều hơn là một sự hiểu biết rõ ràng như loại nhân quả thuộc ngoại duyên vừa nói. Bởi sự nhận thức của người đời còn bị hạn cuộc trong nghiệp thức chúng sinh. Chỉ thấy gần không thấy xa, thấy trước mắt không thể thấy sau lưng v.v... thành nhân quả đối với những gì xảy ra trong hai đời trở lên khó mà nhận được. Trong khi nhân quả thuộc nội duyên không chỉ xảy ra trong một đời mà có liên hệ khá nhiều đời.Nhân, có khi thuộc quá khứ mà phải mấy đời sau mới đủ duyên hiện quả.Như chuyện nhân quả xảy ra với tác giả cuốn Thủy Sám. Vì thế, ngoại trừ những ai đã được huân tập niềm tin đối với nhân quả, hoặc trong hiện tại, nhận liền được cái quả mà mình vừa gieo nhân, thì đa phần còn lại đối với mặt nội duyên này, ít người tin nhận.

Không tin thì hành xử lầm nhân lộn quả, không phải mọi hành tác có thể ra ngoài nhân quả.

Phật dạy muốn sung túc giàu có thì phải bố thí hay cúng dường. Trộm cắp chỉ đưa đến đói nghèo. Trộm cắp nói đây chỉ cho các hành động thu vào không mang tính chính đáng. Nhưng hiện tại, đa phần thường làm ngược lại.Lầm trộm cắp là nhân của giàu cóthực hành điều đó rất mau mắn.Việc gì lợi mình hại người đều làm được và làm mạnh khi đủ duyên.Đó là đang gieo cái nhân nghèo khókhổ nạn trong tương lai.Đủ duyên cái quả hiện thành.

Nếu hiện tại do trộm cắp mà thấy phát sinh giàu có thì phải hiểu trộm cắp chỉ là phương tiện để những phúc thiện đã gieo trong quá khứ thành hình. Vì vậy, nhận cho được nhân nào cho ra quả nào trong đời sống hiện nay không phải dễ.Muốn nhìn đúng mối liên hệ nhân quả của một pháp đòi hỏi phải có trí tuệ, không thì phải có niềm tin đối với kinh luận.

Thứ đệ duyên

Long Thọ nói: “Pháp trước diệt, thứ lớp sinh”. Là muốn nói đến cái duyên khiến dòng tâm thức nối tiếp tương tục.Nó là cái nhân sinh ra nhân quả tương tụcsinh tử tương tục. Trong Đại Thừa Khởi Tín Nghĩa Ký, Tổ Hiền Thủ nói: “Khi các thánh nhân lìa bỏ vọng niệm thì không có cảnh giới này. Đã không có cảnh giới này thì biết cảnh giới này từ vọng mà sinh”. Đời sống của chúng ta được tiếp nối, chết đây sinh kia là do dòng vọng niệm. Liên tục nối kết nhau là do cái nhân Thứ đệ duyên này.

Pháp trước diệt là điều kiện để pháp sau sinh.Pháp trước nếu không diệt thì pháp sau không thể sinh. Chỉ nói pháp trước mà không nói pháp sau, chỉ nói thứ lớp sinh mà không nói “cái gì” thứ lớp sinh, vì “cái gì” đó bao gồm cả niệm trước lẫn niệm sau. Niệm sau sinh rồi trở thành niệm trước, tiếp tục diệt làm điều kiện cho niệm sau sinh.Cứ thế mà tương tục không dứt.

Nếu không đặt vấn đề dứt vọng thì dòng tương tục đó cứ thế mà tương tục.Nhân quả tương tụcsinh tử tương tục là quả của Thứ đệ duyên.Dứt được duyên này cũng có nghĩa là dứt được sự tương tục của nhân quảsinh tử.

Sở duyên duyên

Đối tượng của năm giác quan, kinh luận gọi là Sở duyên [5].

Nói chi tiết, thức A lại da, do lực nhân duyên mà khi tự thể sinh khởi, trong thì biến làm chủng tử và thân có các căn, ngoài thì biến làm khí thế gian, rồi lấy cái biến ra đó làm cảnh sở duyên của mình”[6]. Với Mạt na, tàng thức vừa là sở y vừa là sở duyên. Còn sáu trần (sắc, thanh v.v…) là cảnh sở duyên của sáu thức.

Với cảnh Sở duyên là sắc, thanh, hương, vị, xúc, nếu khởi thân nghiệp, khẩu nghiệp, khởi tâm vương tâm sở [7] thì Sở duyên trở thành Sở duyên duyên.[8] Theo Bồ-tát Trần Na, Sở duyên duyên là do thức năng duyên nắm giữ tướng đã khởi (tướng này phải có thật thể) [9] rồi nương tướng đó mà sinh “sắc cực vi” v.v… Nghĩa là, tướng nào có thật thể và có thể khiến các thức sinh khởi, tướng đó gọi là Sở duyên duyên.[10] Vì nơi cảnh Sở duyên mà duyên lần nữa, nên gọi là Sở duyên duyên.

Sở duyên duyên là một trong các duyên khiến nhân quả xoay vần.Lành có.Dữ có.

Bồ-tát Long Thọ, sau khi nhận ra ái dục chỉ mang lại khổ đau cho con người, liền vào rừng ẩn tu. Được một vị Tỳ kheo trao cho cuốn kinh, nhưng không cảm thấy thỏa mãn với những gì mình đã đọc.Thời gian đó, Bồ-tát thay y mới, lập giới mới, xây một nhà thủy tinh và nghỉ trong đó.Nhân việc này, nẩy sinh hai loại tư tưởng khác nhau.Một, cho Long Thọlòng bi mẫn đối với chúng sinh, ngài muốn tìm ra phương tiện lợi ích cho đời sau nên làm các việc đó. Một, cho Long Thọ do hàng phục được nhiều ngoại đạo mà tâm sinh cao mạn, nên hiện ra các tướng đó.

Cùng một cảnh Sở duyên, nhưng tùy chỗ nghĩ của mỗi người mà tính chất của cảnh thành khác.Phần khác đó khiến Sở duyên trở thành Sở duyên duyên.

Người đã khởi tâm cho Bồ-tát Long Thọ cao mạn, là đang gieo cái nhân không tốt, khó tránh được cái quả chẳng lành khi đủ duyên.Chưa kể một khi đã khởi tâm cho ngài cao mạn thì khó mà học được gì ở ngài. Coi như bít lối vào Trung đạo của mình. Trong trường hợp này, Sở duyên duyên là cái nhân sinh ra cái quả không lành.Trường hợp ngược lại, ta có loại Sở duyên duyên làm phát sinh cảnh giới lành.

Trong đời sống bình thường đây, ta dễ sống với cái nhân là Sở duyên duyên hơn là sống với chính cảnh Sở duyên. Ta hay nhầm lẫn giữa cái thật hiện hữu và một cái hiện hữu đã thông qua lăng kiến của mình. Hay nhầm lẫn giữa một người giảng pháp và một người giảng pháp hay. Tư tưởng “hay” hòa nhập với “đối tượng được nhận biết” nhanh đến mức cứ như chúng là một. Từ đó phát sinh ít nhất hai cái nhìn khác nhau dù trên cùng một đối tượng.Tâm rơi vào nhị biên phân biệt. Sinh tử theo đó tương tục.

Không phải chỉ có người đời mới không tách bạch được cái gì là thực tại, cái gì là cảnh Sở duyên và cái gì là Sở duyên duyên.Ngay cả người tu, dù là tu Phật, vẫn chưa thể tách bạch được các cảnh giới ấy. Trên cảnh, tùy theo quan niệm đã huân từ trước mà khởi tâm, nhưng hay cho cảnh mình thấy là chân lý. Thế giới nẩy sinh bao vấn đề cũng vì đó.Vì đã biến Sở duyên thành Sở duyên duyên. Khổ và lạc theo đó mà xuất hiện. Sở duyên duyên trở thành duyên khiến người đời thông qua đó mà trả quả và gây nhân, Bồ-tát thông qua đó mà phát huy hạnh nghiệp.

Một khi chúng ta chưa ý thức rõ thế nào là cảnh Sở duyên, thế nào Sở duyên duyên thì loại Sở duyên duyên này vẫn chi phối toàn bộ đời sống của mình.

Với một số nhà Vật lý thiên văn, cái gọi là “cội gốc của vạn pháp” có thể chư vị còn mơ hồ, nhưng trong điều kiện làm việc của mình, chư vị lại hiểu khá tường tận về loại Sở duyên duyên này, dù không hề biết đến cái tên Sở duyên hay Sở duyên duyên.

Vào thời kỳ đầu, khi Galilê sử dụng kính thiên văn để nhìn thấy cái gọi là “thực tại tuyệt vời” thì các đồng nghiệp của ông vẫn không mấy tin về điều đó. Bởi dụng cụ thiên văn bao gồm các thấu kính có khả năng làm lệch tia sáng và phóng đại các ảnh thì chúng vẫn có thể tạo ra những ảo ảnh quang học. Và những gì chúng ta thấy đó có thể chỉ là sản phẩm của những ảo ảnh quang học. Song dù những hạn chế về máy móc có thể khắc phục được thì vẫn có một thứ “không thể khắc phục được, đó là con người và bộ não của chúng”.[11]

“Con người không thể quan sát tự nhiên một cách khách quan. Bởi vì luôn có sự tương tác bên trong và bên ngoài của họ.Sự tiến triển của thế giới bên trong thường xuyênảnh hưởng đến sự cảm nhận thế giới bên ngoài và ngược lại sự tiếp xúc của thế giới bên ngoài cũng sẽ làm biến đổi thế giới bên trong”.

“Trong suốt quá trình được đào tạo nghề nghiệp, thế giới bên trong của các nhà khoa học bị nhồi nhét bởi các khái niệm, mô hình và các lý thuyết. Do đó thế giới bên ngoài khi được phóng chiếu bằng cái nhìn của thế giới bên trong không còn cho phép các nhà khoa học nhìn được các sự kiện “trần trụi” và khách quan mà không có sự giải thích nào. Ngay cả những người khách quan nhất trong số các nhà nghiên cứu cũng có những thiên kiến. Những thiên kiến này (gọi chung là hình mẫu) đóng vai tròđộng lực trong tiến trình khoa học. Không có một quan niệm được tiếp nhận từ trước (tức coi như không có hình mẫu nào hết) thì trong vô số thông tin mà thiên nhiên gởi cho, nhà khoa học không thể lựa chọn được những thông tin và sự kiện quan trọng có khả năng nhất trong việc phát hiện những qui luật và nguyên lý, là những yếu tố mang nhiều thông tin nhất. Chính vì vậythực tại không tránh khỏi bị thế giới bên trong của các nhà khoa học làm cho biến đổichúng ta chỉ sẽ thấy những thứ mà chúng ta muốn thấy mà thôi”.

Đa phần các cái nhìn đều bị chi phối bởi những tri kiếnchúng ta đã huân tập sẵn trong tâm thức. Thế giới chung quanh không còn được nhìn đúng như chính nó.

Trong nhà thiền, mọi nỗ lực tu hành của thiền sinh đều nhắm vào việc xa lìa dần loại Sở duyên duyên này, dù là thiện hay bất thiện.Trả cảnh về đúng vị trí của nó.Tức “Tâm trụ tự tâm. Cảnh trụ tự cảnh”.[12] Có vậy, mới hy vọng sống lại được với cái gốc chân thể, là cội nguồn chân thật từ đó phát sinh vạn pháp, là sở y của Sở duyênSở duyên duyên. Song với cái nhìn của đa số người đời, việc không có một suy niệm nào đối với vạn vật vạn sựthế gian là việc không thể làm được.Thật ra không phải vậy. Mọi thứ đều do huân tập mà có. Không huân tập nữa thì mọi thứ thành không.

Tăng thượng duyên

Tăng thượng duyên là loại duyên mà nhờ nó các duyên khác có thể phát tán hoặc theo chiều thuận hoặc theo chiều nghịch. Long Thọ nói: “Cái này có nên cái kia có”.[13] Cái này làm duyên tăng thượng cho cái kia. Theo đó thì ba duyên trên cũng mang hình thức Tăng thượng duyên, nhưng duyên này chỉ chung cho tất cả những duyên còn sót lại, không thuộc ba duyên trên.[14]

Tăng thượng duyên có ở cả mặt nội duyên lẫn ngoại duyên.

Quả báo của thiện nghiệpsung túc, danh vọng, sắc đẹp v.v… Chúng có thể là duyên để thiện nghiệp trong hiện tạiđiều kiện phát triển nhưng cũng có thể là duyên khiến ác nghiệpđiều kiện tăng thạnh. Trong điều kiện đó, sung túc, danh vọng v.v… mang hình thức của Tăng thượng duyên.

Tùy điều kiện đất và nước ở mỗi miền mà thanh long phát triển tốt hay xấu. Đất và nước khiến thanh long phát triển tốt vừa mang tính Nhân duyên, vừa mang tính Tăng thượng duyên theo chiều thuận. Khiến thanh long phát triển èo uột thì đất và nước đó vừa mang tính Nhân duyên, vừa mang tính Tăng thượng duyên theo chiều nghịch. Nói Nhân duyên, vì nhờ sự nhóm họp của các duyên như hạt giống, đất, nước v.v… mà có cái quả thanh long.Nói Tăng thượng duyên, vì có đất tốt và nước tốt mà có thanh long tốt, đất và nước không tốt thì có thanh long không tốt.“Cái này có nên cái kia có” là hình thức của Tăng thượng duyên. Đây cũng là duyên góp phần cho sự tăng trưởng của dòng tương tục.

VÌ SAO TRUNG LUẬN PHỦ ĐỊNH 4 DUYÊN?

Duyên khởi chi phối mọi hiện tướngthế gian như thế, vì sao Trung luận lại phủ định bốn duyên?

Trong các bài kinh thuộc hệ A-hàm, Đức Phật cũng khẳng định Duyên khởi là thực lý chi phối thế gian này.[15] Nếu là thực lý, sao lại phá và sao có thể phá được?

Phá tướng hiển tánh

Phủ định, vì Duyên khởi tuy là thực lý, nhưng chỉ là thực lý ở thế gian.Tức chỗ nào có không và thời gian, chỗ đó Duyên khởi tồn tại chi phối tất cả.Nó thuộc về mặt hiện tượng.Ở mặt bản thể, là chỗ phi khôngthời gian, Duyên khởi không tồn tại. Đó là “chỗ” mà Lục Tổ nói: “Bồ-đề vốn không cây / Gương sáng cũng chẳng đài / Bản lai vô nhất vật / Chỗ nào có bụi bậm”.[16] Tâm Kinh Bát-nhã nói: “Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v…”.Không tất cả thì Duyên khởi nương đâu mà tồn tại? Vì thế, tuy là thực lý nhưng chỉ là thực lý ở thế gian, là thực lý của người trong mộng.Nói trong mộng nhưng không phải với người tỉnh mộng Duyên khởi không có tác dụng. Khi dùng hóa thân vào cõi mộng giáo hóa chúng sinh, chư vị vẫn phải theo luật ấy mà đi. Phật ra đời với thân tướng của Tất-đạt-đa vẫn không thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết.Mọi hành tác của ngài không ra ngoài Duyên khởi. Chỉ vì thấu được cội nguồn chân thật của tất cả pháp mà dù bị chi phối, vẫn không bị ràng buộc, đến và đi chỉ do ứng tâm mà hiện. Đó là lý do Duyên khởi được gọi là thực lý. Nhưng chỉ là thực lý ở thế gian nên vẫn phá được.

“Không” nên Duyên khởi.Thấy các pháp duyên khởi thì biết tánh các pháp là “không”.

Tánh đó, kinh luận gọi là Phật tánh, Vô sinh, Không hai, Bản lai vô nhất vật v.v… là tánh thể mà tất cả chúng sinh và Phật đồng có, chỉ do vô minh mà không nhận thấy, cũng không dụng được, phải theo nghiệp lực mà chuyển. Kẻ không bị nghiệp lực trói buộc lại an trụ nơi hóa thành, đánh mất công hạnh và diệu dụng của bản tâm. Phá, chính là phá tướng Nhân duyên để hiển tánh Nhân duyên.Là phá mặt hiện tượng, giúp nhận ra bản thể.Là nhận ra tánh thể vô sinh của chính mình, cũng là cội nguồn chân thật của tất cả pháp.Phật thể đã hiển thì tướng và dụng của Phật cũng sẽ hiển.

Phá sự chấp thủ đối với bốn duyên

Phá nhân duyên, là để chúng sinh không chấp vào nhân duyên.Bởi không chấp thì mới có thể trực nhận lại được tánh thể lìa các chấp thủ.Vì thế, phá bốn duyên còn mang ý nghĩa là phá tâm chấp thủ của chúng sinh đối với bốn duyên.

Hạng chúng sinh nói đây, không phải là hạng chúng sinh bình thường với đầy đủ tham sân si mà chính là chư vị Nhị thừa và Bồ-tát thuộc Tam hiền.[17] Đây là y theo tâm mà nói, không y theo hình tướng. Bởi hạng chúng sinh bình thường khó mà nghe được tên bốn duyên.Với lý nhân quảthế gian có khi còn chưa tin nhận, huống là hiểu sâu về bốn duyên để sinh tâm chấp thủ đối với bốn duyên? Phải là hàng nội giáo hiểu khá tường tận về giáo pháp của Như Lai, nhưng chưa thấu được chỗ rốt ráoNhư Lai đã thấu, mới sinh tâm chấp thủ đối với bốn duyên.

Phá bốn duyên là muốn giúp chư vị nhận ra được thực tánh của bốn duyên, là nhận ra được cội nguồn chân thật của tất cả pháp, lìa hóa thành chứng bảo sở. Vì thế, nói phá bốn duyên mà thực là phá vào tâm chấp thủ đối với bốn duyên, không phải hủy hoại chính bốn duyên.Pháp vốn như, có gì phải hủy hoại?

 

[1] Trung Luận.

[2] Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Phần Ngũ Ấm Ma. Phạm vi Thức ấm.

[3] Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

[4] Ngoại cảnh cũng không lìa tâm mà có, nhưng phân ngoại, phân nội và nói có liên quan đến tâm, là muốn nói đến mặt nổi trội là ở tâm hay vật theo cái nhìn của chúng sinh hiện tại.

[5] Thành Duy Thức Luận – HT Thích Thiện Siêu dịch và chú, ấn hành 1996 – Trang 222 ghi: “Luận Trang Nghiêm nói: Năm căn của Như Lai mỗi căn duyên đủ năm cảnh”. Trang 223 ghi: “Khế kinh nói: “Nhãn thức thế nào? Đó là thức nương nhãn căn liễu biệt các sắc. Nói rộng cho đến ý thức thế nào? Là thức nương nơi ý căn liễu biệt các pháp”. Kinh kia chỉ nói riêng chỗ nương của sáu thức (nhãn căn v.v…) với kiến phần (liễu biệt) và cảnh sở duyên của nó (sắc v.v…) khi ở địa vị chưa chuyển y. Còn khi ở địa vị đã chuyển y thì căn sở y và cảnh sở liễu của sáu thức chung thông như trước nói (là chỉ cho những gì nói ở trang 222”.

[6] Thành Duy Thức Luận. Đại Tạng Kinh 31. No 1582, quyển 2 ghi: “阿賴耶識因緣力故自體生時。內變為種及有根身。外變為器。即以所變為自所緣”.

[7] Nói theo Thành Duy Thức Luận là “khởi thức”. [8] Thập Nhị Môn Luận. Bồ-tát Long Thọ tạo.Cưu ma La Thập dịch.Đại Tạng Kinh 30. No 1568.

[9] Nghĩa “thật” trong thế giới tương đối.

[10]Luận Quán Sở Duyên Duyên. Bồ-tát Trần Na tạo.Huyền Trang dịch.Đại Tạng Kinh 31. No1624.Ghi: “Sở duyên duyên là, thức năng duyên nắm giữ cái tướng khởi có thật thể đó, khiến thức năng duyên nương đó mà sinh sắc cực vi v.v…. Nếu có thật thể và hay sinh ngũ thức thì vẫn mang nghĩa hữu duyên nhưng không phải là Sở duyên, như nhãn căn đối với nhãn thức, vì không có tướng đó. Như vậy, cực vi đối với nhãn thức v.v… không có nghĩa Sở duyên”.

(“所緣緣者。謂能緣識帶彼相起及有實體。令能緣識託彼而生色等極微。設有實體能生五識容有緣義。然非所緣。如眼根等於眼等識無彼相故。如是極微於眼等識。無所緣義”).

[11]Giai điệu Bí ẨnCon Người Tạo Ra Vũ Trụ - Gs Trịnh Xuân Thuận.Phần viết trong ngoặc kép sau đều trích từ đây.

[12] Vạn Pháp Qui Tâm Lục - Thiền sư Tổ Nguyên - HT Thích Đắc Pháp dịch.

[13] Thập Nhị Môn Luận. Bồ-tát Long Thọ tạo.Cưu Ma La Thập dịch.Đại Tạng Kinh 30. No 1568.

[14] Thành Duy Thức Luận – HT Thích Thiện Siêu dịch và chú.

[15] Kinh Trung Bộ tập II ghi: “Do duyên sinh, lão tử có mặt. Dù chư Như Laixuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp vẫn thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”.

[16] Pháp Bảo Đàn KinhLục Tổ.

[17] Đây là nói theo Biệt giáo. Nói theo Viên giáo thì Thập trụ đã thấy được Phật tánh. Ngoài Phật ra, còn lại đều gọi là chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7351)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4519)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4564)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7332)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2963)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12219)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3992)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4221)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6683)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4006)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4123)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5337)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3786)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4527)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3551)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3930)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4389)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5393)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3841)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3940)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3872)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4825)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4524)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4257)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3828)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4634)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4206)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6109)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4608)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4946)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4191)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4824)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5669)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3649)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4032)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4590)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5285)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3146)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4556)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4290)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4740)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4490)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4606)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7217)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5212)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5007)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4594)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4161)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6008)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4716)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4876)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5482)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5617)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5819)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant