Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

07 Tháng Mười Một 201607:05(Xem: 8581)
Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

THÁI ĐỘ TÂM LINH CỦA ĐẠO PHẬT

Tỳ-kheo THÍCH MINH CHÂU
Bài diễn thuyết tại Đại Học Văn khoa Sài Gòn ngày 6 tháng 4 năm 1967.

Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

 

Kính thưa quý vị,

Giữa thời thế điêu linh này, sự hiện diện của quý vị trong buổi nói chuyện hôm nay đã nói lên ý thức mở rộng của quý vị trước một đề tài mà có thể có người cho rằng không mấy hấp dẫn lắm. Trước những tin tức dồn dập của chính trường quốc tế và chiến sự Việt Nam, trước những biến thiên dữ dội của đời sống xã hội thời loạn, một đề tài nói chuyện nhan đề “Thái độ tâm linh của đạo Phật” có tính cách không được thiết thực lắm và dễ trở thành một đề tài trí thức thông thường của đời sống Đại Học hoặc cũng dễ trở thành một bài thuyết pháp nặng mùi tín điều tôn giáo mà người nói chỉ là người truyền đạo đứng trên cao nhìn xuống cuộc đời dưới kia.

Không phải thế. Chúng tôi không nghĩ vậy. Nơi diễn đàn hôm nay, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày vài ba điểm cần thiết để đánh tan những ngộ nhận có thể có được của người xa lạ với tư tưởng chính yếu của đạo Phật. Trước hết, chúng tôi xin vào đề ngay rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, dù nghĩa “tôn giáo” hiểu theo truyền thống Tây phương hay Đông phương. Nói đến “tôn giáo” là nói đến “tín ngưỡng”, “giáo hội”, “giáo quyền”, “thần quyền”, “thần khải”, v.v... Đạo phật gồm có đủ những điều vừa kể, nhưng điều quan trọng nhất là tất cả chúng ta cần phải lưu tâm: Những điều vừa kể không làm đạo phật trở thành đạo phật, mà chỉ là những hình thức tất yếu xuất phát từ sự thoái hóa tinh thần của những người tự nhận là theo đạo Phật. Đạo phật không phải là “tôn giáo” mà cũng không phải là “triết lý” hay “triết học”. Tư tưởng triết lý của đạo Phật chỉ là hậu quả tất yếu của sự sinh thành biện chứng trong sinh hoạt tâm linh của người theo đạo Phật.

Người ta thường hay nhấn mạnh đến khía cạnh thực tế, thực tiễn của đạo Phật trước những vấn đề quan trọng của đời sống; vì thế có người cũng đã từng cho rằng đạo Phật là một chủ nghĩa thực nghiệm, một thứ “positivisme” gần gần như Auguste Comte, một thứ “empirisme” hay “Phénoménisme” gần gần như David Hume, một thứ “Pragmatisme” gần gần như William James. Rồi cũng có người đem so sánh phật giáo với những hệ thống triết lý đi ngược lại với những thứ triết lý duy thực, duy nghiệm: họ nói Phật giáo gần gần với triết lý hiện sinh của Jean-Paul Sartre, gần gần với phương pháp trị liệu của phân tâm học hiện đại theo điệu Carl Jung hay Erich Fromm, v.v.... Nói tóm lại thì họ đã mang đến đạo Phật những nhãn hiệu hoàn toàn mâu thuẫn đối nghịch nhau và hoàn toàn xa lạ hẳn với tinh túy của đạo Phật.

Tất cả những sự việc lạ lùng trên chỉ nói lên sự ngộ nhận ngay từ căn bản của những người có thiện chí đi đến với đạo Phật. Sự ngộ nhận này xuất phát từ một thái độ sai lầm của người muốn tìm hiểu đạo Phật, dù người muốn tìm hiểu ấy có thiện chí hay thiếu thiện chí, dù đứng bên trong truyền thống Phật giáo hay đứng bên ngoài. Sự ngộ nhận ấy xuất phát từ một sự ngộ nhận thái độ. Thái độ của người tìm hiểu đã sai lầm ngay nền tảng, vì thế đạo Phật chỉ là một đề tài cho sự hiếu kỳ trí thứchình thức của đạo Phật lại trở thành quan trọng hơn tinh thần sống động của đạo Phật: Người ta chỉ tìm hiểu đạo Phật để so sánh, để thỏa mãn óc hiếu kỳ, để khai triển trí thức, để ca tụng hoặc chống đối, để nhận là của mình hay không phải của mình; người ta không nhìn đạo Phật như là đạo Phật, mà lại nhìn đạo Phật như là tôn giáo vô thần hoặc hữu thần, như là triết lý duy thực hoặc duy tâm, như là tín ngưỡng hoặc tín điều.

Thế nào là nhìn đạo Phật như là đạo Phật?

Đạo Phật như thế thì mình nhìn như là thế. Chữ kinh Phật thường thường mở đầu là: “Như thị ngã văn”. “Như thị ngã văn” có nghĩa là “tôi nghe như vậy”; đó là lời đức Phật dạy ông Ưu-ba-ly và A-nan phải mở đầu các kinh bằng bốn tiếng ấy (cf. Trí Độ Luận).  “Như thị ngã văn”. Có nghĩa là tôi nghe như thế nào thì tôi nghe đúng như vậy, tôi nghe đạo Phật như là đạo Phật. Nghe đạo Phật như là đạo Phật cũng đồng nghĩa với việc nhìn thấy đạo Phật như là đạo Phật. Muốn nhìn thấy cho đứng đắntrung thực thì phải có một thái độ đứng đắn và trung trực, Đứng giữa cuộc đời, mỗi người đều có một thái độ nào đó; “Thái độ” cũng đồng nghĩa với “quan điểm”; “quan điểm” là điểm, chỗ mình thấy. “Quan”, là thấy, nhìn thấy, dịch lại chữ Pali chính là “dassana”. Biết nhìn thấy là điều quan trọng trong đời sống; đạo Phật thường hay nhấn mạnh đến sự nhìn thấy: chúng ta thường thấy những chữ “kiến”,”quan” (quán) rải rác trong tất cả Kinh luận Phật giáo. “Chánh kiến” (sammā diṭṭhia) là con đường đầu tiên, con đường thứ nhất trong tám con đường chân chính (bát chính đạo), tất cả ý nghĩa của Thiền tông xoay về nơi hai chữ Kiến tánh, tất cả ý nghĩa của tất cả những tông phái của Phật giáo có thể thu gọn trong câu: “Khiến tà kiến thành chơn chánh” (mà chữ Pali gọi là: “Diṭṭhijjukamma”).

Thấy và thấy đúng, đó là ý nghĩa giản dị và phức tạp của đạo Phật. Thấy và thấy đúng, đó là con đường của tất cả mọi con đường. Đạo Phật mở mắt chúng ta để thấy. Thấy sự vật như là sự vật, thấy sự vật đúng với sự thật; kinh luận Pali gọi sự thấy ấy là Vipassanā (quán): Thiền định, Bhāvanā có hai loại: Samatha (chỉ) và Vipassanā (quán); nhờ tu samatha mà chứng được Abhiññā (thắng trí thần thông); còn nhờ vipassanā (quán) mà chứng được thánh quả.

Điểm thứ nhất mà khi đề cập tới thái độ tâm linh của đạo Phật chúng tôi cần phải lưu ý quý vị là sự quan trọng của việc thấy trong đời sống nội tâmngoại giới của chúng ta. Chúng ta có mặt, nhưng chúng ta vẫn không thấy, và nếu có thấy chăng thì chỉ thấy sai; chữ nhà Phật gọi là “Tà kiến” (Micchādiṭṭhi diṭṭhigata). Tà kiếntai họa lớn nhất trong đời sống; tà kiến còn nguy hiểm và khó trị hơn là chiến tranh, đói rách và thiên tai. Tà kiến khiến con người trở thành một con thú bần tiện nhất trên đời. “Kiến điên đảo” là thấy sự vật đảo ngược lại, chấp hư làm thực, chấp vọng bỏ chân; “kiến phược”, “Kiến thủ kiến” (chữ phạn: Drstipāmārsa), “kiến chướng”, “kiến kiến”, “kiến võng”. “Kiến trọc” (Drsti-kasāya) “kiến ái”, “kiến tư”, “kiến độc” là những chữ thông dụng trong kinh luận đạo Phật để chỉ sự thấy sai của con người, để chỉ sự nô lệ của ý thức, sự sa đọa của kiến thức, sự sa lầy của con người trên con đường trở về Tự do An lạc.

Hai tông phái quan trọng trong những tông phái quan trọng nhất của Phật giáo như Tam Luận tôngThiền tông cũng đưa con người trở về sự thấy chân chính: yếu chỉ của Tam luận tông (cũng gọi là Trung quán luận, Mādhya-mika) cũng xoay quanh trong việc phá bỏ tất cả những sự thấy sai lầm, những “kiến” (drsti) phá bỏ những giáo thuyết tín điều (drsti-vāda) những thứ “ngã kiến” (ātma-drsti satkāya-drsti) “vô kiến” (vibhava-drsti), "hữu kiến" (bhava-drsti) để thể nhập Chân không (sūnyatà); yếu chỉ của Thiền Tông đã được cô đọng trong câu “kiến tánh thành Phật” nghĩa là thấy tự tánh mình vốn vẫn thanh tịnh. “Kiến tánh” cũng đồng nghĩa với “kiến Phật”. Trong Pāli Abhidhamma, có nói đến Dhammacakkhu (pháp nhãn). Nói đến quả của sắc giới thiện nghiệp, hành giả có niệm (sāti) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, thì được sanh vào cõi “thiện kiến thiên” (Pāli: Sudassa); chữ “Thiện kiến thiên” ở đây mang ý nghĩa tượng trưng cho kết quả của sự thấy chân chính.

Nơi đây, không phải là chỗ để chúng tôi trưng dẫn kinh điển và một mớ thuật ngữ Phật giáo bằng Phạn ngữ, Pāli và Hán ngữ. Chúng tôi chỉ muốn trình bày sơ lược đôi thí dụ cụ thể để cho quý vị thấy rằng vai trò quan trọng của Pháp nhãn (Dhammacakkhu) trong thái độ tâm linh của đạo Phật. Ngày xưa, những vị thiền sư cũng thường gọi Đạo Phật là “chánh pháp nhãn tạng”, như việc tổ sư trao truyền “chánh pháp nhãn tạng” lại cho đệ tử. Thấy đúng nghĩa là thấy thì có nghĩa là thấy đúng sự thật, thấy sự thật như là sự thật. Tất cả ý nghĩa của thái độ tâm linh trong đạo Phật có thể tóm gọn vào việc thấy. Trong tư tưởng hiện đạiTây phương, không ai mà không nghe đến tên tuổi của linh mục Pierre Teilhard de Chardin, một nhà bác học và một tư tưởng gia nổi danh khắp thế giới. Trong cuốn Le Phénomè Humain, Teilhard de Chardin cũng thường đặt tất cả sự quan trọng vào động từ “voir”. Đối với Teilhard de Chardin thì tất cả đời sống chỉ thu gọn vào việc thấy: “Voir. On pourrait dire que toute la vie est là” (cf. Le Phénomè Humain, Édition du Seuil, 1957, p25). Teilhard de Chardin lại còn nói mạnh hơn: “Voir ou périr” (cf. op. cit. p 25). Sự thống nhất nhân loại chỉ có thể được hình thành nhờ sự khai triển rộng lớn phạm vi ý thức của con người, mà mở rộng ý thức chính là khai mở thị quan (Teilhard de chardin: “L'Unité ne grandit que supportée par un accrois-sement de conscience; c'est à dire de vision”; cf. op. cit. p.25). Các “vũ trụ hội tụ” (l'univers convergent, cf. op.cit. p. 344) mà Teilhard de Chardin muốn đưa tới thì cũng chỉ là sự đồng nhất giữa khách thể và chủ thể trong việc biến chuyển hỗ tương để đưa đến kiến tri toàn diện: “Con Người tự tìm lại mình và tự nhìn mình trong tất cả những gì mình thấy (Objet et subjet s'éspousent et se transforment mutuellement dans l'acte de connaissan-ce. Bon gré mal gré, dès lors, l'Homme se retrouve et se regarde lui même dans tout ce qu'il voit” cf. op. cit. p. 26).

Thái độ tâm linh của đạo Phật bắt đầu bằng “chánh kiến”. Chánh kiến là thấy mọi sự đúng như thật, và Tứ Diệu Đế giải thích sự thấy như thật ấy. “Chánh kiến” tức là thấy hiểu Tứ Diệu Đế: đó là thấy được Thực tại tối hậu. Bất cứ người nào tự nhận là Phật tử thì ít nhất cũng có một kiến thức sơ đẳng, thu gọn trong Tứ niệm xứ:

1. - Quán thân bất tịnh;
2. - Quán thọ thị khổ;
3. - Quán tâm vô thường;
4. - Quán pháp vô ngã;

Chữ “quán” (thấy) nằm trong “tứ niệm xứ”; “tứ niệm xứ” mở ra “tứ vô lượng tâm”, con đường dứt trừ dục ái, sân hận, nhiễm ôđạt đến tự tại.

Đó là nền tảng sơ đẳng cho thái độ của đạo Phật. Gọi là thái độ tâm linh, vì thái độ ấy đưa con người đến đời sống tâm linh. Một điểm quan trọng chúng tôi thấy cần phải nêu lên là “tâm linh” ở đây không có nghĩa như chữ La tinh "Spiritus", “animus”, “anima”, “ratio”, “transcendens”, v.v..., như trong ý nghĩa của truyền thống kinh viện Trung cổ ở Tây phương. Ở đây, “Tâm linh” được hiểu theo nghĩa “Tâm” trong chữ “Citta” của Kinh điển Phật giáo: đạo Phật không hề tách rời phân chia “Tâm” (citta) và “sắc” (Rūpa), vì cả hai đều liên đới dính líu tương quan. Đó là sự khác nhau căn bản giữa chữ “Tâm” trong đạo Phật và chữ “Tâm” trong những hệ thống tôn giáo triết lý Tây phương. Tâm lý học Phật giáo như môn học Abhidhamma không phải là học về “tâm” theo nghĩa "psyché" của Hy-lạp mà lại học về “sắc giới tâm”, “vô sắc giới tâm”, “siêu thế tâm”, tức là những vấn đề vượt ra ngoài sự hiểu biết hiện tại nông cạn và có giới hạn của chúng ta.

Điểm quan trọng khác trong đạo Phậtchúng ta nên lưu tâm đặc biệt là “kinh nghiệm tâm linh” (tạm dịch là chữ Pháp cho dễ hiểu là “réalisation métaphysi-que”, “réalisation spirituelle”, “expérience spirituelle”, “expérience mystique”). Tất cả những tông phái Phật giáo đều hướng chúng ta đến cứu cánh duy nhấtkinh nghiệm tâm linh; nói khác đi là không phải chỉ lý thuyết thôi mà phải sống theo lý thuyết bằng thực tếkinh nghiệm, “Trí đức song tu”. Đạo Phật không phải là hình thức giáo điều mà là hướng dẫn trên một phương hướng phương pháp, đưa đến một sự chứng cá nhân (réalisation de soi, vérité-pour-soi); đạo Phật không chối bỏ siêu hình, nếu siêu hình được khám phá bằng con đường kinh nghiệm cá nhân, đạo Phật chuyển hóa siêu hình thành kinh nghiệm thành thái độ, gọi tắt là thái độ tâm linh. Thái độ tâm linh ấy là tu quán (gọi lại chữ Pāli là: vipassanā), tu chính sắc giới tâm và vô sắc giới tâm với những phương pháp thiền định của sắc giới tâm và vô sắc giới tâm. Mỗi đối tượng có một phương pháp riêng và mỗi phương pháp đều có tính cách uyển chuyển, tùy cơ, tùy thời.

Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này. Thái độ tâm linh của đạo Phật không phát sinh từ ý thức về một đấng Phạm Thiên, một Thực thể tối cao, siêu việt. Ngược lại, thái độ tâm linh của đạo Phật nằm trong con người, do con người, bởi con người và cho con người. Nói như thế, không có nghĩa là đạo Phật chỉ nằm trong bình diện “tại thể tính” (plan immanent); nói như danh từ thần học Thiên chúa giáo. Không phải thế. Những ý niệm như “siêu việt tính” (transcendance) và “tại thể tính” (imma-nence) không thể áp dụng vào đạo Phật; đạo Phật đứng bên ngoài những ý niệmtính cách phân biệt của ngôn ngữ thần học. Đạo Phật xuất hiện cho con người, nhưng nói thế không có nghĩa là đạo Phật đặt con người làm trung tâm điểm vũ trụ, hiểu theo chữ “anthropocentrisme”. Hiểu như thế thì chỉ giới hạn đạo Phật vào một hoàn cảnh giới hạn của con người, chỉ thấy hiện thể mà chối bỏ tiềm thể và phân ly chia rẻ con người ra ngoài tính cách nhất thể của vũ trụ; thái độ tâm linh của đạo Phật là trả con người lại cho con ngườicon người chỉ là con người khi con người không còn chấp vào nhân tính, chấp ngã, chấp nhân; nói gọn lại thì con người phải tự chuyển tánh để đạt đến Phật tính. Đạo Phật không phải là chủ nghĩa nhân bản (humanisme) và cũng không phải là một chủ nghĩa phi nhân bản (anti-humanisme), vì tất cả chủ nghĩa nhân bản (hay phi nhân bản) đều được thành lập căn cứ trên một quan điểm cố định về bản chất con người (essence humaine, nature humaine). Phi nhân bản cũng là nhân bản, vì phủ nhận nhân bản này để chấp nhận nhân bản khác; tất cả chủ thuyết nhân bản đều nhìn nhận rằng con người (homo) chỉ là người khi con người trở lại chất người, trở lại nhân tính (humanitas) trả con người (homo) lại bản vị làm người (humanus). Chủ nghĩa phi nhân bản chối bỏ nhân tính (homo humanus) để ca tụng phi nhân tính (homo non-humanus), nhưng cả hai trường hợp đều đồng một quan điểmlập luận trên một cứ điểm về bản chất, bản tính của con người (essence, nature humaine). Đạo Phật không nhận bằng con người có một bản chất, bản tính, hiểu theo nghĩa “substance” “nature” hay “essence” hay “ego”, vì lý do quá rõ ràngđạo Phật nhấn mạnh về tính cách vô ngã của con người. Tất cả chủ nghĩa nhân bảnphi nhân bản đều nhận rằng con ngườingã tính (ego); tất cả thái độ tâm linh của đạo Phật chỉ là phá bỏ kiến chấp, tức là phá ngã và phá chấp, đưa con người vượt lên trên con người để vươn đến Phật tính; thái độ ấy là chuyển nhân bản thành Phật bản.

Muốn đưa nhân bản đến Phật bản thì phải thấy sự thật như là sự thật, nghĩa là thấy Tứ Diệu Đế. Muốn thấy được sự thật trên thì phải tự mình thấy cho mình, không thể nhờ người khác thấy thế cho mình, không thể nô lệ vào tín điều, vào ý kiến, vào quan điểm, vào một đấng tối cao ở trên cao hoặc ở dưới cuộc đời này.

Đạo Phật mời chúng ta hãy tự lên đường, không hành lý, không vướng bận nô lệ vào thần quyền hay nhân quyền; đạo Phật mời chúng ta hãy đứng lên tự gánh lấy trách nhiệm của riêng mình trước đời sống; con đường của đạo Phậtcon đường đưa dẫn đến sự thấy chân chính, “khiến tà kiến thành chân chánh” (Ditthijjukamma), đó là con đường duy nhất đưa đến một đời sống tâm linh cao đẹp, mà thể hiện rõ ràng nhất là tinh thần Vô tâm được thể hiện trên nụ cười trác việt của đức Phật, nụ cười thầm lặng của Đông phương trước những cơn vũ bão tàn phá của cơ khí Tây phương, nụ cười kín đáo ấy chứa đựng tất cả ý nghĩa phong phú của đạo Phật, thái độ tâm linh của đạo Phật  trước nỗi phân ly đau đớn của quê hương hiện nay.

Kính chào quý vị.
TỲ kheo Thích Minh Châu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 148)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 204)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 191)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 801)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 806)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 687)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 689)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 685)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 686)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 686)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 790)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 865)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 922)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1092)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1099)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1237)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1508)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 921)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1250)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1155)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant