Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Câu Chuyện Về Nghiệp

09 Tháng Mười Một 201606:33(Xem: 8795)
Một Câu Chuyện Về Nghiệp

MỘT CÂU CHUYỆN VỀ NGHIỆP

Chân Hiền Tâm

Một Câu Chuyện Về Nghiệp


Vào thời đức Phật, một ngoại đạo đến hỏi Tỳ kheo Samid (tu được ba năm) rằng:

- Khi một người tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệpý nghiệp, thì họ sẽ nhận được cảm thọ gì? (Muốn nói đến cái quả mà người đó nhận được sau hành vi hay suy nghĩ ấy).

Tôn giả Samid trả lời :

- Này hiền giả, khi một người tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệpý nghiệp thì họ sẽ nhận được cảm thọ khổ đau.

Ngoại đạo Pota nghe xong đứng dậy ra đi. Không tán thán cũng không phản đối.

Sau khi ngoại đạo Pota đi rồi, tôn giả Samid đến chỗ Tôn giả Anan trình bày lại cuộc đối thoại giữa mình với Pota. Tôn giả Anan nói:

- Này hiền giả. Đây là đề tài cần phải trình lại với đức Thế Tôn. Hãy đến chỗ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn chỉ dạy thế nào, chúng ta sẽ y đó mà thọ trì.

Sau khi nghe trình bày câu chuyện, đức Thế Tôn nói với tôn giả Anan:

- Câu hỏi đáng lý phải được phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Pota thì lại được trả lời một cách phiến diện. Này Anan! Ta biết nếu Samid mở miệng đề cập đến vấn đề gì thì đều đề cập một cách không như lý. Này Anan! Câu hỏi của Pota thật sự khởi thủy từ ba cảm thọ. Câu trả lời ấy đáng ra phải được trả lời như vầy: “Này hiền giả Pota, nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ nhận được lạc thọ. Nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ nhận được khổ thọ. Nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệpý nghiệp có khả năng đưa đến cảm thọ không lạc không khổ, người ấy sẽ nhận được cảm thọ không lạc không khổ”. Nếu trả lời như thế là Samid đã trả lời một cách chân chánh cho du sĩ ngoại đạo Pota. Những du sĩ ngoại đạo yếu kém sẽ hiểu rộng về nghiệp nhờ sự lý giải phân tích của Như Lai.

Tôn giả Anan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời. Xin Thế Tôn phân biệt rộng về nghiệp. Sau khi nghe Thế Tôn phân tích, chư Tỳ kheo sẽ thọ trì…

Đức Thế Tôn trả lời:

- Hãy lắng nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói.

Tôn giả Anan thưa:

- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bắt đầu nói:

- Này Anan có 4 loại người sau tồn tạithế gian.(Nghĩa là có 4 trường hợp như thế xảy ra ở thế gian này, là thực tếđức Thế Tôn nhìn thấy)

1/ Có người sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi dữ.

2/ Có người sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi lành.

3/ Có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi lành.

4/ Có người từ bỏ sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi dữ.

Này Anan! Có những Sa-môn, Bà–la-môn, tùy vào mức độ nhập định của mình mà thấy được một trong 4 cảnh giới đó, rồi tưởng đó là chân lý của cuộc sống. [1]

- Người thấy được cảnh giới thứ nhất cho rằng thật sự có việc “Sát sinh, trộm cặp v.v… đưa đến cõi dữ”. Và nghĩ đó là chân lý. Những ai nghĩ như vậy, họ cho là người trí. Những ai không nghĩ như vậy họ cho là tà trí. Họ nắm chặt quan điểm đó và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực. Ngoài ra đều là hư vọng”.

- Người thấy cảnh giới thứ hai cho rằng thật sự có việc “Sát sinh, trộm cặp v.v… đưa đến cõi lành”. Và nghĩ đó là chân lý. Những ai nghĩ như vậy, họ cho là có trí. Những ai không nghĩ như vậy họ cho là tà trí. Họ nắm chặt quan điểm đó và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực. Ngoài ra đều là hư vọng”.

- Người thấy cảnh giới thứ ba cho rằng thật sự có việc “Từ bỏ sát sinh, trộm cặp v.v… đưa đến cõi lành”. Và nghĩ đó là chân lý. Những ai nghĩ như vậy, họ cho là có trí. Những ai không nghĩ như vậy họ cho là tà trí. Họ nắm chặt quan điểm đó và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực. Ngoài ra đều là hư vọng”.

- Người thấy cảnh giới thứ tư cho rằng thật sự có việc “Từ bỏ sát sinh, trộm cặp v.v… đưa đến cõi dữ”. Và nghĩ đó là chân lý. Những ai nghĩ như vậy, họ cho là có trí. Những ai không nghĩ như vậy họ cho là tà trí. Họ nắm chặt quan điểm đó và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực. Ngoài ra đều là hư vọng”.

Này Anan, nếu một ai đó nói như vầy: “Chắc chắn có ác nghiệp và có quả báo của ác nghiệp”, hoặc nói “Chắc chắn có thiện nghiệp và có quả báo thiện nghiệp”, hoặc nói “Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy họ đọa vào cõi dữ” v.v… Ta chấp nhận việc đó. Nhưng nếu người ấy nói: “Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác nghiệp”, hoặc nói “Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, trộm cắp v.v… khi thân hoại mạng chung đều đọa vào đường dữ” v.v… thì ta không chấp nhận.

Nói chung, Đức Thế Tôn không chấp nhận những quan điểm về nghiệp rơi vào khẳng định mang tính phổ quát (cố định). Đức Thế Tôn chỉ chấp nhận cái thấy tùy duyên. Tùy duyên mà có khi sát sinh, trộm cắp v.v… đưa đến cõi dữ, có khi đưa đến cõi lành. Từ bỏ sát sinh, trộm cắp v.v… có khi đưa đến cõi lành mà cũng có khi đưa đến cõi dữ.

Vì sao?

Đức Thế Tôn giải thích, là do khi mệnh chung, tâm vị ấy thọ lạc hay thọ khổ, khởi tâm tà kiến hay chánh kiến. Tức việc hành giả, sau khi mệnh chung đi vào đường lành hay đường dữ, lệ thuộc rất lớn vào cái tâm ngay khi lâm chung. Nếu khi ấy tâm an lạc hay khởi chánh kiến thì vào đường lành. Nếu tâm khổ não hay khởi tà kiến thì vào đường dữ…

Xuất xứ : Kinh Đại nghiệp phân biệt – Kinh Trung Bộ tập III


Ghi chú
: Đây nêu bày những điều kiện nào khiến chúng ta thác sinh vào cõi lành hay cõi dữ. Chính là lúc mạng chung tâm chúng ta thế nào. Nếu khi mạng chung mà an vui và có chánh kiến thì sinh vào cõi lành. Nếu tâm sầu não và không có chánh kiến thì sinh vào cõi dữ.

Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.

Nếu chỉ làm phước mà chấp vào cái phước ấy thì khi mạng chung, chưa chắc đã được an vui để ra đi. Làm phước mà lại hưởng phước ấy từ những nghiệp bất thiện như nghề đồ tể, tham nhũng v.v… thì khi mạng chung không tránh được oan gia tới đòi mạng.

Vì thế tu mà phải biết cách tu nữa thì mới giúp mình có con đường sáng lạng trước mắt.

[1] Phần câu trả lời này đã tóm tắt lấy ý chính để dễ theo dõi. Trong kinh, liệt kê từng trường hợp rõ ràng theo lối thường gặp trong các bộ kinh thuộc hệ A hàm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1656)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1033)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1488)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1940)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1522)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1545)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1275)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1695)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1641)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2998)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1364)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1407)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1322)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1682)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1890)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1819)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2391)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1785)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2124)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2194)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2299)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1853)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1976)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1956)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2594)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1946)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1944)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1895)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2167)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2300)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1976)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2083)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1885)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1904)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2407)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2320)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2480)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3196)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2044)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1796)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2343)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3025)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2700)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant