Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào

26 Tháng Mười Một 201614:32(Xem: 7631)
Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào
NGHIỆP VÀ TÁI SINH NÊN ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO

Bhante Kovida
Biên dịch : Nguyễn Văn Nhật

Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào


Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền địnhtìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.

Ông đã trở lại Ấn Độ hai lần nữa, kết hợp với những hoạt động xã hội phục vụ phát triển ở Sri Lanka. Tháng giêng năm 1991, ông thụ giới với Đại lão Hòa thượng Balangoda Anandamaitreya, một học giả, giáo sư và một nhà thực hành thiền định nổi tiếng, đã nhập diệt vào ngày 18 tháng 7 năm 1998 ở tuổi 102 sau khi cống hiến nhiều cho Tam bảo. Sau hai năm nhận được sự giáo huấn của thầy, Bhante Kovida trở về Toronto và bắt đầu chia sẻ giáo pháp với các bạn đạo. Ông thường lui tới Hamilton, Ottawa, Halifax, và Vancouver cũng nhằm bày tỏ những hiểu biết của mình về đạo Phật. Cứ khoảng hai năm một lần, ông lại quay lại vùng Đông Nam Á để thăm viếng bạn bè, hướng dẫn Hatha Yoga và Khí côngđồng thời giảng dạy về Phật pháp ở nhiều trung tâm Phật giáo tại Mã Lai, Singapore, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông.

Bài dưới đây trích từ nhiều đoạn trong Hành trình vào Trí tuệTừ biTự tại và Tịnh tịch của một tâm thức luôn truy tầm (An Inquiring Mind’s Journey into Wisdom, Compassion, Freedom anh Silence)của ông.

Niềm tin về sự tái hiện thân và về một bản ngã riêng biệt, không biến đổitrường tồn là một niềm tin nổi bật trong nền văn hóa cổ Ấn Độ xuất hiện trước và trong thời kỳ của Đức Phật, vẫn tồn tại đến tận ngày nay trong tư tưởng Ấn giáo.


Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thể và trường tồn, rằng nó chỉ là một ý niệm trong tâm thức dựa trên quá khứ quy định,bao gồm ký ức và kiến thức cùng kinh nghiệm quá khứ. Thông thường, con người tin vào một bản ngã trường tồn hay linh hồn vì chúng ta có những ký ức, hình ảnhý niệm và quan điểm của chính mình cũng như của những người khác mà chúng ta không nhận thức được rằng tự thân những hiện tượngtâm thức ấy liên tục biến đổi và không hề trường tồnTư tưởng có thể đem lại tính liên tục cho điều gì mà nó nghĩ đến: những ký ức khả ái hay đau đớn. Nó có thể mang lại ý niệm về sự trường tồn cho một từ ngữ hay một hình ảnh, cho một ý tưởng hay một khái niệm, hoặc cho một truyền thốngTư tưởng tự nghĩ rằng nó trường tồn bởi chuyển động tự động, có tính cách máy móc và lặp đi lặp lại của nó; nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Cả trên mặt đất lẫn trong tâm thức của chúng ta,thực sự chẳng có gì trường tồn. Cho nên Đức Phật cũng là bậc đạo sư đầu tiên đã không hề nói về sự tái hiện thân và quả tình đó là điều hết sức cấp tiếnTrải qua nhiều thế kỷ, nhiều Phật tử đã ôm ấp niềm tin rõ rệt vào sự tái hiện thân chỉ vì mơ tưởng và do việc họ thiếu khả năng mở rộng sự hiểu biết sâu sắc của mình về vô ngã(sự không tồn tại của một bản ngã riêng biệt, cụ thể và trường tồn). Bao lâu mà con người còn bị vướng mắc trong tiến trình tư duycon người sẽ còn tiếp tục bám víu vào ý niệm về một bản ngã trường tồn và vào niềm tin về sự tái hiện thân, trong ý niệm về những cuộc đời thuộc quá khứ và tương lai.

Đức Phật có nói đến “sự tái sinh”, nhưng tôi có cảm tưởng rằng hầu hết mọi người, kể cả một số bậc cao tăng học giả, đã hiểu lầm và giải thích sai lạc ý nghĩa của sự  “tái sinh” theo quan điểm của Đức Phật. Họ noi về sự tái sinh theo cái cách mà những người khác nói về sự tái hiện thân, và họ nói rằng, thay vì một bản ngã hay một cái-tôi-cá-nhân chuyển vào một thân xác khác sau khi chết, thì đó chính là nghiệp lực của cá nhân ấy tiếp tục tồn tại (nghĩa là ý thức của con người cùng những hậu quả của hành động của con người). Ngay cả quan điểm này cũng chỉ là suy đoán và mơ tưởng, Họ sử dụng ý niệm ấy của sự tái sinh để giải thích những hiện tượng phi thường nơi những trẻ con có khả năng nhớ lại kiếp trước. Vế vấn đề này có thể tôi nhầm lẫn, nhưng tôi có cảm tưởng rằng Đức Phật có ý nói đến một điều hoàn toàn khác.

Người ta cho rằng vào lúc giác ngộĐức Phật đã có khả năng nhớ lại vô số những tiền kiếp. Hình như Ngài đã thốt lên: “Trải qua vô số những cuộc sinh thành mà ta đã lầm lạc,tìm kiếm mà không tìm thấy kẻ đã kiến tạo ngôi nhà này. Quả là phiền muộn đối với việc cứ ra đời rồi lại ra đời. Ôi cái Kẻ Xây Nhà kia, ngươi đã bị phát giác; ngươi sẽ không còn xây lại ngôi nhà này nữa. Những cái rui của ngươi đã bị bẻ gãy; thanh thượng lương của ngươi cũng đã bị phá hủyTâm thức của ta nay đã giành được trạng thai Hưu dư y Niết-bàn và đã đến được chỗ tận cùng của mọi loại khao khát”. Trong kinh Dhammacakka (chuyển pháp luân), bài giảng đầu tiên của Ngài, khi nhận định về Thánh đế thứ hai (Tập đế), Đức Phậtđã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.

Từ sự hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm của chính mình, tôi có cảm tưởng rằng, khi Đức Phật nói về sự tái sinh, Ngài thực sự nói đến một hiện tượng tâm lý chứ không phải là một hiện tượng vật lý, có nghĩa là Ngài đã nói đến sự tái sinh về mặt tâm thức, nói rõ hơn, đó là sự khởi lên lặp đi lặp lại của thái độ quy ngã xuất hiện bởi vô minh và ảo tưởng, bởi sự khao khát và bám víu, bởi sự giận dữ và ác ý. Cho nên, khi Đức Phật nói về việc nhớ lại vô số tiền kiếpđơn giản là Ngài chỉ muốn nói đến những lần mà bản ngã đã biểu lộ bởi vô minh và ảo tưởng trước sự kiện Đại Giác ngộ của Ngài. Nếu quán chiếu, bạn có thể thấy rằng, chỉ trong một ngàymà thôi, bản ngã của mình có thể khởi lên vô số lần bởi vô minh và ảo tưởng, bởi những thói quen của tình trạng quy ngã, bởi những thôi thúc và những điều quan tâm, có phải thế không? Khi Đức Phật đã có khả năng nhìn thấu cái ảo tưởng về một bản ngã cố định và trường tồn (Kẻ Xây Nhà). Ngài đã được giải thoát khỏi mọi khao khát và bám víu, mọi đau khổ về tinh thần và những nỗi khó chịu. Tâm thức của Ngài tĩnh lặng, thênh thang , trong trẻothoát khỏi mọi cảm giác và tư tưởng quy ngã. Và vì thế khi Ngài nói, “Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”, Đức Phật không hề nói về việc không trở lại một lần nữa trong hình thái vật chất mà đúng hơn, Ngài đã được giải thoát khỏi mọi khao khát quy ngã và tâm thức của Ngài đã được thanh lọc khỏi tam độc.

Con người nói về nghiệp kiếp trước vì họ muốn tin vào sự tái hiện thân và vào một bản ngã trường tồnchỉ vì ảo tưởng và vô minh, và họ cũng muốn có một câu trả lời thuận tiện,dễ dàng để giải thích những điều mà họ không thể hiểu rõ hoặc chẳng thể làm được gì về chúng. Chẳng hạn, họ thường hỏi, “Ông có thể giải thích thế nào về việc vì sao một người rộng lượng, tử tế lại phải đau khổ vì căn bệnh ung thư hay bị thương tật khủng khiếp đến vậy trong một tai nạn?” hoặc “Ông có thể giải thích thế nào về việc tại sao phụ nữ và trẻ em vô tội lại bị giết trong các cuộc nội chiến và tranh chấp?”. Họ trả lời, “Hẳn phải là nghiệp kiếp trước, hẳn là ở kiếp trước những người ấy đã làm những việc gì rất xấu xa nên ngày nay họ phải trả. Nghiệp quá khứ đã chín. Nay họ phải gặt những gì mà họ đã gieo”. Nghiệp được coi là một cách thức trừng phạtTín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nói, “Đó là ý Chúa và là sự trừng phạt của Chúa”. Trong khi tín đồ Hồi giáo bảo rằng, “Đó chính là ý định của Thánh Allah”. Con người tìm kiếm sự an ủivà an toàn trong những câu trả lời dễ dãi và thuận tiện vì họ không hiểu được luật duyên khởi hay duyên sinh, rằng mọi sụ xảy ra và trôi qua vì những nguyên nhân và những điều kiện nào đó.

Nhiều Phật tử sử dụng ý niệm của túc nghiệp để giải thích những sự bất bình đẳng về thể chất và xã hội: tại sao một số người mới sinh ra đã bị tàn tật và quặt quẹo trong khi những người khác sinh ra lành lặn và khỏe mạnh, tại sao một số người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn trong lúc những người khác sinh ra trong những gia đình giàu có và quyền thế, tại sao có người sinh ra với thiên bẩm và sự thông minh trong khi những người khác sinh ra với sự trì độn và ngu ngốc,  tại sao có người được sống thọtrong khi có những kẻ chết trẻ,tại sao có những người xinh đẹp trong khi có những kẻ xấu xívân vân và vân vânMột lần nữa, lại có một sự giải thích dễ dãi và thuận tiện vì không biết đến luật duyên sinh – những nguyên nhân và những điều kiện hiển nhiên bao gồm những yếu tố về môi trường và sinh học cùng sự tuyển trạch ngẫu nhiênCách cư xử độc ác và sự đau khổ về tâm thần hiển nhiên xuất hiện từ những cấu uế của chúng ta – tình trạng vô minh và ảo tưởng, sự khao khát và bám víu, sự ghét bỏ và ác ý.

Nghiệp là luật nhân quả, là hành động và phản ứng, và bạn có thể thấy điều đó một cách rõ ràng ngay trong đời sống hàng ngày nếu bạn có chú tâmchúng ta tạo ra những nghiệp xấu ác như thế nào bằng những hành động và lời nói cố ý không khéo léo, chúng ta tạo ra những đau khổ và mâu thuẫn như thế nào chỉ vì vô minh và ảo tưởng, vì những tham luyến và những ước muốn, những ghét bỏvà ác ý, những thèm muốn ghen tỵ và oán giận. Theo Đức Phât, chúng ta có thể thủ tiêu nghiệp xấu bằng cách thực hiện những cố gắng để thanh lọc tâm thức khỏi những cấu uế để nhờ đó trau dồi những đức tính nhân bảnchấm dứt mọi đau khổ và mọi nỗi khó chịu. Nghiệp là hành động có chủ ý và hành động là kết quả của quá khứ quy định của chúng ta. Nghiệp là phản ứng xảy ra từ những nguyên nhân nào đó và tạo nên những kết quả nào đó. Nghiệp chính là chuỗi nhân quả ấy. Về cơ bản, tiến trình thời gian là nghiệp. Bao lâu còn có quá khứ,thì phải có hiện tại và tương lai. Hôm nay và ngày mai là hậu quả của ngày hôm qua. Nghiệp thường được hiểu là một cách thức đền bù. Nhưng nghiệp chính là tiến trình thời gian, còn tâm thức là kết quả của thời gian. Điều mà chúng ta đã làm trong quá khứ – tốt đẹp hay xấu ác – quyết định điều chúng ta có trong hiện tại. Nhưng cái bối cảnh quá khứ ấy không phải là một trạng thái tĩnh tại. Nó vẫn đang trải qua một sự biến đổi không dứt. Chúng ta ngày hôm nay không phải là chúng ta của ngày hôm qua cả về thể chất lẫn tâm lý: có một sự biến đổi liên tục vẫn tiếp diễn. Cho nên tâm thức cũng không ở một trạng thái tĩnh tại. Tư tưởng của chúng ta chỉ thoáng qua, thay đổi liên tục, chúng là câu trả lời cho cái bối cảnh ấy, cái quá khứ quy định ấy , gồm ký ức, kiến thức và kinh nghiệmquá khứ. Cái “tôi”, cái “là tôi” hay kẻ suy nghĩ được tạo nên bởi những tư tưởng, nó không phải là cái gì riêng biệt. Kẻ suy nghĩ chỉ là kết quả của những tư tưởngTư tưởng tạo ra kẻ suy nghĩ, đem lại cho kẻ áy một vị trí cố định trường tồn trong tâm thức ngay giữa những dòng tư tưởng thoáng qua. Đó chính là cái ảo tưởng mà tư tưởng tạo nên, những trò bịp bợm mà tư tưởng đùa giỡn với chính nó.

Đáp lại với cái quá khứ quy định ấy chính là nghiệp, như trong hành động cố ýĐáp lại với ký ức được gọi là hành động, nhưng thực ra nó chỉ là phản ứng, cái “hành động” ấy sản sinh những phản ứng khác nữa và vì thế có cả một chuỗi những điều được gọi là nguyên nhân và phản ứng. Thế nhưng phải chăng nguyên nhân không phải là hậu quả hay sao? Cả nguyên nhân lẫn hậu quả đều không tĩnh tại. Hôm nay là hậu quả của ngày hôm qua nhưng lại là nguyên nhân của ngày mai; điều đã là nguyên nhânnay trở thành hậu quả và hậu quả lại là nguyên nhân. Cái này lưu chuyển vào trong cái kia. Chẳng hề có một khoảnh khắc nào mà nguyên nhân không cùng lúc cũng là hậu quả. Chỉ có những gì đã được thiết kế chuyên dụng rồi mới được cố định trong nguyên nhân của nó và vì thế cũng cố định trong hậu quả của nó: quả sồi chẳng thể trở thành bất kỳ một điều gì khác ngoài một cây sồi. Nghiệp là tiến trình thời gianquá khứ chuyển dịch đến hiện tại rồi tương lai, chuỗi chuyển dịch này chính là chuyển động của tư tưởngTư tưởng là kết quả của thời gian, và chỉ có thể có được sự vô hạn, sự vĩnh cửutình trạng phi thời gian khi tiến trình của tư tưởng dừng lại. Sự tĩnh tịch của tâm thức có mặt theo sau sự huấn luyện tâm thức, sự hiểu biết về tiến trình tư duy và sự hiểu biết về kẻ suy nghĩ cùng với những thôi thúc, những phản ứng theo thói quen đã bị điều kiện hóa của y – đó chính là sự kết thúc vô minh và ảo tưởng, sự khao khát và bám víu, sự ghét bỏ và ác ý.

Việc cắt đứt chuỗi dây xích nghiệp lực không phải là vấn đề của thời gian. Nghiệp phải được hiểu như một tiến trình toàn thể, không chỉ như một điều gì đó của quá khứQuá khứ là thời gian, cũng vậy với hiện tại và tương lai. Thời gian là ký ức, từ ngữý niệmtruyền thông , niềm tin. Khi từ ngữdanh tự, sự liên tưởngkinh nghiệm và bản ngã cùng với vô số những khao khát của nó vắng mặt trong sự minh bạch và tĩnh lặng của sự tỉnh thức thênh thang, khi ấy nghiệp cũng chấm dứt. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt đối và tự do tuyệt đối của Tâm thức Phật.■
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13201)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19355)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24603)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15738)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37815)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13470)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13088)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17165)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13200)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17381)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21615)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13214)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14386)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12808)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13650)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28591)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23382)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34366)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28858)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32174)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11326)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12002)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26277)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17359)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14521)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34468)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12276)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13400)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40505)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26922)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14454)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13250)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13450)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12521)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13140)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12305)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11782)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12561)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17657)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12202)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12747)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18432)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14289)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12988)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11318)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12147)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13458)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10832)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11069)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10283)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28877)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25255)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26843)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25746)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18663)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23004)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34524)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32151)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant