Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào

26 Tháng Mười Một 201614:32(Xem: 7632)
Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào
NGHIỆP VÀ TÁI SINH NÊN ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO

Bhante Kovida
Biên dịch : Nguyễn Văn Nhật

Nghiệp Và Tái Sinh Nên Được Hiểu Như Thế Nào


Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền địnhtìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.

Ông đã trở lại Ấn Độ hai lần nữa, kết hợp với những hoạt động xã hội phục vụ phát triển ở Sri Lanka. Tháng giêng năm 1991, ông thụ giới với Đại lão Hòa thượng Balangoda Anandamaitreya, một học giả, giáo sư và một nhà thực hành thiền định nổi tiếng, đã nhập diệt vào ngày 18 tháng 7 năm 1998 ở tuổi 102 sau khi cống hiến nhiều cho Tam bảo. Sau hai năm nhận được sự giáo huấn của thầy, Bhante Kovida trở về Toronto và bắt đầu chia sẻ giáo pháp với các bạn đạo. Ông thường lui tới Hamilton, Ottawa, Halifax, và Vancouver cũng nhằm bày tỏ những hiểu biết của mình về đạo Phật. Cứ khoảng hai năm một lần, ông lại quay lại vùng Đông Nam Á để thăm viếng bạn bè, hướng dẫn Hatha Yoga và Khí côngđồng thời giảng dạy về Phật pháp ở nhiều trung tâm Phật giáo tại Mã Lai, Singapore, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông.

Bài dưới đây trích từ nhiều đoạn trong Hành trình vào Trí tuệTừ biTự tại và Tịnh tịch của một tâm thức luôn truy tầm (An Inquiring Mind’s Journey into Wisdom, Compassion, Freedom anh Silence)của ông.

Niềm tin về sự tái hiện thân và về một bản ngã riêng biệt, không biến đổitrường tồn là một niềm tin nổi bật trong nền văn hóa cổ Ấn Độ xuất hiện trước và trong thời kỳ của Đức Phật, vẫn tồn tại đến tận ngày nay trong tư tưởng Ấn giáo.


Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thể và trường tồn, rằng nó chỉ là một ý niệm trong tâm thức dựa trên quá khứ quy định,bao gồm ký ức và kiến thức cùng kinh nghiệm quá khứ. Thông thường, con người tin vào một bản ngã trường tồn hay linh hồn vì chúng ta có những ký ức, hình ảnhý niệm và quan điểm của chính mình cũng như của những người khác mà chúng ta không nhận thức được rằng tự thân những hiện tượngtâm thức ấy liên tục biến đổi và không hề trường tồnTư tưởng có thể đem lại tính liên tục cho điều gì mà nó nghĩ đến: những ký ức khả ái hay đau đớn. Nó có thể mang lại ý niệm về sự trường tồn cho một từ ngữ hay một hình ảnh, cho một ý tưởng hay một khái niệm, hoặc cho một truyền thốngTư tưởng tự nghĩ rằng nó trường tồn bởi chuyển động tự động, có tính cách máy móc và lặp đi lặp lại của nó; nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Cả trên mặt đất lẫn trong tâm thức của chúng ta,thực sự chẳng có gì trường tồn. Cho nên Đức Phật cũng là bậc đạo sư đầu tiên đã không hề nói về sự tái hiện thân và quả tình đó là điều hết sức cấp tiếnTrải qua nhiều thế kỷ, nhiều Phật tử đã ôm ấp niềm tin rõ rệt vào sự tái hiện thân chỉ vì mơ tưởng và do việc họ thiếu khả năng mở rộng sự hiểu biết sâu sắc của mình về vô ngã(sự không tồn tại của một bản ngã riêng biệt, cụ thể và trường tồn). Bao lâu mà con người còn bị vướng mắc trong tiến trình tư duycon người sẽ còn tiếp tục bám víu vào ý niệm về một bản ngã trường tồn và vào niềm tin về sự tái hiện thân, trong ý niệm về những cuộc đời thuộc quá khứ và tương lai.

Đức Phật có nói đến “sự tái sinh”, nhưng tôi có cảm tưởng rằng hầu hết mọi người, kể cả một số bậc cao tăng học giả, đã hiểu lầm và giải thích sai lạc ý nghĩa của sự  “tái sinh” theo quan điểm của Đức Phật. Họ noi về sự tái sinh theo cái cách mà những người khác nói về sự tái hiện thân, và họ nói rằng, thay vì một bản ngã hay một cái-tôi-cá-nhân chuyển vào một thân xác khác sau khi chết, thì đó chính là nghiệp lực của cá nhân ấy tiếp tục tồn tại (nghĩa là ý thức của con người cùng những hậu quả của hành động của con người). Ngay cả quan điểm này cũng chỉ là suy đoán và mơ tưởng, Họ sử dụng ý niệm ấy của sự tái sinh để giải thích những hiện tượng phi thường nơi những trẻ con có khả năng nhớ lại kiếp trước. Vế vấn đề này có thể tôi nhầm lẫn, nhưng tôi có cảm tưởng rằng Đức Phật có ý nói đến một điều hoàn toàn khác.

Người ta cho rằng vào lúc giác ngộĐức Phật đã có khả năng nhớ lại vô số những tiền kiếp. Hình như Ngài đã thốt lên: “Trải qua vô số những cuộc sinh thành mà ta đã lầm lạc,tìm kiếm mà không tìm thấy kẻ đã kiến tạo ngôi nhà này. Quả là phiền muộn đối với việc cứ ra đời rồi lại ra đời. Ôi cái Kẻ Xây Nhà kia, ngươi đã bị phát giác; ngươi sẽ không còn xây lại ngôi nhà này nữa. Những cái rui của ngươi đã bị bẻ gãy; thanh thượng lương của ngươi cũng đã bị phá hủyTâm thức của ta nay đã giành được trạng thai Hưu dư y Niết-bàn và đã đến được chỗ tận cùng của mọi loại khao khát”. Trong kinh Dhammacakka (chuyển pháp luân), bài giảng đầu tiên của Ngài, khi nhận định về Thánh đế thứ hai (Tập đế), Đức Phậtđã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.

Từ sự hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm của chính mình, tôi có cảm tưởng rằng, khi Đức Phật nói về sự tái sinh, Ngài thực sự nói đến một hiện tượng tâm lý chứ không phải là một hiện tượng vật lý, có nghĩa là Ngài đã nói đến sự tái sinh về mặt tâm thức, nói rõ hơn, đó là sự khởi lên lặp đi lặp lại của thái độ quy ngã xuất hiện bởi vô minh và ảo tưởng, bởi sự khao khát và bám víu, bởi sự giận dữ và ác ý. Cho nên, khi Đức Phật nói về việc nhớ lại vô số tiền kiếpđơn giản là Ngài chỉ muốn nói đến những lần mà bản ngã đã biểu lộ bởi vô minh và ảo tưởng trước sự kiện Đại Giác ngộ của Ngài. Nếu quán chiếu, bạn có thể thấy rằng, chỉ trong một ngàymà thôi, bản ngã của mình có thể khởi lên vô số lần bởi vô minh và ảo tưởng, bởi những thói quen của tình trạng quy ngã, bởi những thôi thúc và những điều quan tâm, có phải thế không? Khi Đức Phật đã có khả năng nhìn thấu cái ảo tưởng về một bản ngã cố định và trường tồn (Kẻ Xây Nhà). Ngài đã được giải thoát khỏi mọi khao khát và bám víu, mọi đau khổ về tinh thần và những nỗi khó chịu. Tâm thức của Ngài tĩnh lặng, thênh thang , trong trẻothoát khỏi mọi cảm giác và tư tưởng quy ngã. Và vì thế khi Ngài nói, “Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”, Đức Phật không hề nói về việc không trở lại một lần nữa trong hình thái vật chất mà đúng hơn, Ngài đã được giải thoát khỏi mọi khao khát quy ngã và tâm thức của Ngài đã được thanh lọc khỏi tam độc.

Con người nói về nghiệp kiếp trước vì họ muốn tin vào sự tái hiện thân và vào một bản ngã trường tồnchỉ vì ảo tưởng và vô minh, và họ cũng muốn có một câu trả lời thuận tiện,dễ dàng để giải thích những điều mà họ không thể hiểu rõ hoặc chẳng thể làm được gì về chúng. Chẳng hạn, họ thường hỏi, “Ông có thể giải thích thế nào về việc vì sao một người rộng lượng, tử tế lại phải đau khổ vì căn bệnh ung thư hay bị thương tật khủng khiếp đến vậy trong một tai nạn?” hoặc “Ông có thể giải thích thế nào về việc tại sao phụ nữ và trẻ em vô tội lại bị giết trong các cuộc nội chiến và tranh chấp?”. Họ trả lời, “Hẳn phải là nghiệp kiếp trước, hẳn là ở kiếp trước những người ấy đã làm những việc gì rất xấu xa nên ngày nay họ phải trả. Nghiệp quá khứ đã chín. Nay họ phải gặt những gì mà họ đã gieo”. Nghiệp được coi là một cách thức trừng phạtTín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nói, “Đó là ý Chúa và là sự trừng phạt của Chúa”. Trong khi tín đồ Hồi giáo bảo rằng, “Đó chính là ý định của Thánh Allah”. Con người tìm kiếm sự an ủivà an toàn trong những câu trả lời dễ dãi và thuận tiện vì họ không hiểu được luật duyên khởi hay duyên sinh, rằng mọi sụ xảy ra và trôi qua vì những nguyên nhân và những điều kiện nào đó.

Nhiều Phật tử sử dụng ý niệm của túc nghiệp để giải thích những sự bất bình đẳng về thể chất và xã hội: tại sao một số người mới sinh ra đã bị tàn tật và quặt quẹo trong khi những người khác sinh ra lành lặn và khỏe mạnh, tại sao một số người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn trong lúc những người khác sinh ra trong những gia đình giàu có và quyền thế, tại sao có người sinh ra với thiên bẩm và sự thông minh trong khi những người khác sinh ra với sự trì độn và ngu ngốc,  tại sao có người được sống thọtrong khi có những kẻ chết trẻ,tại sao có những người xinh đẹp trong khi có những kẻ xấu xívân vân và vân vânMột lần nữa, lại có một sự giải thích dễ dãi và thuận tiện vì không biết đến luật duyên sinh – những nguyên nhân và những điều kiện hiển nhiên bao gồm những yếu tố về môi trường và sinh học cùng sự tuyển trạch ngẫu nhiênCách cư xử độc ác và sự đau khổ về tâm thần hiển nhiên xuất hiện từ những cấu uế của chúng ta – tình trạng vô minh và ảo tưởng, sự khao khát và bám víu, sự ghét bỏ và ác ý.

Nghiệp là luật nhân quả, là hành động và phản ứng, và bạn có thể thấy điều đó một cách rõ ràng ngay trong đời sống hàng ngày nếu bạn có chú tâmchúng ta tạo ra những nghiệp xấu ác như thế nào bằng những hành động và lời nói cố ý không khéo léo, chúng ta tạo ra những đau khổ và mâu thuẫn như thế nào chỉ vì vô minh và ảo tưởng, vì những tham luyến và những ước muốn, những ghét bỏvà ác ý, những thèm muốn ghen tỵ và oán giận. Theo Đức Phât, chúng ta có thể thủ tiêu nghiệp xấu bằng cách thực hiện những cố gắng để thanh lọc tâm thức khỏi những cấu uế để nhờ đó trau dồi những đức tính nhân bảnchấm dứt mọi đau khổ và mọi nỗi khó chịu. Nghiệp là hành động có chủ ý và hành động là kết quả của quá khứ quy định của chúng ta. Nghiệp là phản ứng xảy ra từ những nguyên nhân nào đó và tạo nên những kết quả nào đó. Nghiệp chính là chuỗi nhân quả ấy. Về cơ bản, tiến trình thời gian là nghiệp. Bao lâu còn có quá khứ,thì phải có hiện tại và tương lai. Hôm nay và ngày mai là hậu quả của ngày hôm qua. Nghiệp thường được hiểu là một cách thức đền bù. Nhưng nghiệp chính là tiến trình thời gian, còn tâm thức là kết quả của thời gian. Điều mà chúng ta đã làm trong quá khứ – tốt đẹp hay xấu ác – quyết định điều chúng ta có trong hiện tại. Nhưng cái bối cảnh quá khứ ấy không phải là một trạng thái tĩnh tại. Nó vẫn đang trải qua một sự biến đổi không dứt. Chúng ta ngày hôm nay không phải là chúng ta của ngày hôm qua cả về thể chất lẫn tâm lý: có một sự biến đổi liên tục vẫn tiếp diễn. Cho nên tâm thức cũng không ở một trạng thái tĩnh tại. Tư tưởng của chúng ta chỉ thoáng qua, thay đổi liên tục, chúng là câu trả lời cho cái bối cảnh ấy, cái quá khứ quy định ấy , gồm ký ức, kiến thức và kinh nghiệmquá khứ. Cái “tôi”, cái “là tôi” hay kẻ suy nghĩ được tạo nên bởi những tư tưởng, nó không phải là cái gì riêng biệt. Kẻ suy nghĩ chỉ là kết quả của những tư tưởngTư tưởng tạo ra kẻ suy nghĩ, đem lại cho kẻ áy một vị trí cố định trường tồn trong tâm thức ngay giữa những dòng tư tưởng thoáng qua. Đó chính là cái ảo tưởng mà tư tưởng tạo nên, những trò bịp bợm mà tư tưởng đùa giỡn với chính nó.

Đáp lại với cái quá khứ quy định ấy chính là nghiệp, như trong hành động cố ýĐáp lại với ký ức được gọi là hành động, nhưng thực ra nó chỉ là phản ứng, cái “hành động” ấy sản sinh những phản ứng khác nữa và vì thế có cả một chuỗi những điều được gọi là nguyên nhân và phản ứng. Thế nhưng phải chăng nguyên nhân không phải là hậu quả hay sao? Cả nguyên nhân lẫn hậu quả đều không tĩnh tại. Hôm nay là hậu quả của ngày hôm qua nhưng lại là nguyên nhân của ngày mai; điều đã là nguyên nhânnay trở thành hậu quả và hậu quả lại là nguyên nhân. Cái này lưu chuyển vào trong cái kia. Chẳng hề có một khoảnh khắc nào mà nguyên nhân không cùng lúc cũng là hậu quả. Chỉ có những gì đã được thiết kế chuyên dụng rồi mới được cố định trong nguyên nhân của nó và vì thế cũng cố định trong hậu quả của nó: quả sồi chẳng thể trở thành bất kỳ một điều gì khác ngoài một cây sồi. Nghiệp là tiến trình thời gianquá khứ chuyển dịch đến hiện tại rồi tương lai, chuỗi chuyển dịch này chính là chuyển động của tư tưởngTư tưởng là kết quả của thời gian, và chỉ có thể có được sự vô hạn, sự vĩnh cửutình trạng phi thời gian khi tiến trình của tư tưởng dừng lại. Sự tĩnh tịch của tâm thức có mặt theo sau sự huấn luyện tâm thức, sự hiểu biết về tiến trình tư duy và sự hiểu biết về kẻ suy nghĩ cùng với những thôi thúc, những phản ứng theo thói quen đã bị điều kiện hóa của y – đó chính là sự kết thúc vô minh và ảo tưởng, sự khao khát và bám víu, sự ghét bỏ và ác ý.

Việc cắt đứt chuỗi dây xích nghiệp lực không phải là vấn đề của thời gian. Nghiệp phải được hiểu như một tiến trình toàn thể, không chỉ như một điều gì đó của quá khứQuá khứ là thời gian, cũng vậy với hiện tại và tương lai. Thời gian là ký ức, từ ngữý niệmtruyền thông , niềm tin. Khi từ ngữdanh tự, sự liên tưởngkinh nghiệm và bản ngã cùng với vô số những khao khát của nó vắng mặt trong sự minh bạch và tĩnh lặng của sự tỉnh thức thênh thang, khi ấy nghiệp cũng chấm dứt. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt đối và tự do tuyệt đối của Tâm thức Phật.■
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5201)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6148)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3312)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3246)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4563)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5222)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3879)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3849)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3212)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4146)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5054)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6750)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3225)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2968)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5871)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4639)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3503)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2904)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3316)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4432)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5731)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6644)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3732)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4617)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3412)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6062)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5849)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3643)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4693)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4464)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4533)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8225)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3928)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5728)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5215)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6858)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6184)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5999)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5810)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6303)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6795)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5576)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6400)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5426)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant