Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo trị quốc của bậc Quân Vương

03 Tháng Mười Hai 201607:37(Xem: 9694)
Đạo trị quốc của bậc Quân Vương
ĐẠO TRỊ QUỐC CỦA BẬC QUÂN VƯƠNG

Tiến sĩ
Robert Thurman | La Sơn Phúc Cường chuyển ngữ

 

thurman-robertMột trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ. Ngài là bậc sáng lập nên truyền thống Trung Đạo. Trong cuộc đời hoằng pháp của mình, ngài từng hướng đạo cho nhiều vị vua ở xứ Ấn trong đạo trị quốc.

Vua Udayi Shatavahana là một trong số đó, ông là vị vua vĩ đại của một triều đại ở Nam Ấn, người đã cai trị vùng cao nguyên Deccan kéo dài từ Bombay thời nay đến Andhra Pradesh (khoảng từ năm 150 tới năm 200 sau công nguyên). Những lời khuyên mà ngài Long Thọ đã ban cho vua Udayi được giữ trọn vẹn trong bộ kinh văn nổi tiếng Jewel Garland of Royal Counsel (Tràng hoa Bảo báu những Khai thị cho Hoàng gia), được ghi chép lại vào khoảng giữa thế kỷ thứ hai sau công nguyên. (Jewel Garland of Royal Counsel, Jeffrey Hopkins dịch từ tiến Phạn, London, Allen and Unwin pub., 1975).

Ngài Long Thọ đã khai thị cho vị vua những điều thiết yếu mang lại sự giải thoáthạnh phúc đích thực của chính bản thân ông. Trên cơ sở đó, ngài khuyên vua Udayi những nguyên tắc cơ bản của việc trị quốc dựa trên lòng nhân ái, tình yêu thương và sự đồng cảm vĩ đại: “Hỡi bậc đế vương, cũng như quý Ngài luôn suy xét,

Làm những gì để lợi ích bản thân,
Vậy nay hãy luôn suy xét,
Phải làm gì để lợi ích tha nhân!”

Ngài Long Thọ thông qua những câu kệ trên đã nêu lên quan điểm cơ bản của mình về một nhà lãnh đạo theo quan điểm Phật giáo, đó là cần phảilòng nhân ái phổ quát, có tâm từtâm bi vĩ đại. Theo quan điểm Phật giáo trong đời sống xã hội, người tham dự cần phải có một cam kết kiên định chuyển hóa tự thân và chuyển hóa thế giới bên ngoài. Trong Phật giáo Nguyên thủy, mong nguyện chuyển hóa nội tâmđiều kiện tiên quyết để chuyển hóa xã hội bên ngoài. Điều này cũng được thể hiện rất rõ trong lý tưởngcông hạnh Bồ tát đạo. Đây là những quan điểm của ngài Long Thọ trong những khai thị cho vị vua Udayi triều đại Sanvatahaa hùng mạnh vùng Nam Ấn.

Tất cả những đàm luận của ngài Long Thọ được gói gọn trong 45 câu kệ của tác phẩm. Phần thứ nhất bắt đầu với một số lời khuyên mà ngài cho là hữu ích tuy nhiên lại có vẻ khó nghe, đặc biệt là đối với một vị vua hùng mạnh, đầy quyền lựcsang giàu, người thường luôn được quan thần xung quanh tâng bốc và có lối suy nghĩ, hành xử riêng của mình. Vị vua được khuyến cáo là hãy dung thứ cho những ngôn từ “lợi lạc nhưng khó chịu” và hãy xem đó như những lời nói chân thành không bắt nguồn từ sân giận mà từ tình thươnglòng bi mẫn, do đó rất cần để được nghe, giống như nước giành để tắm vậy. "Nhận ra rằng tôi đang chia sẻ với quý ngài những điều hữu ích ngay bây giờ và mãi về sau. Hãy làm theo để lợi mình và lợi người”.

Những người đang nắm giữ quyền lực thường luôn như nhau. Trong thực tế trong lịch sửxã hội đương đại, có rất nhiều người có quyền lựcsang giàu, họ có điều kiện được sử dụng, tiêu thụ những thứ mình mong muốn. Do dễ dàng thỏa mãn điều kiện vật chất, họ thường không để tâm tới những thứ đang diễn ra hàng ngày nhưng lại khá khó chịu như cái chết, đau ốm, tật bệnh và nghèo đói. Họ không muốn nghe những điều như: vạn vật đều vô thường, đời sống này về bản chất là khổ đau và không thanh tịnh. Họ không muốn thừa nhận rằng tất cả mọi người, mọi chúng sinh đều bình đẳng giống như chính họ và những người họ hàng, thân thích của họ, tất cả đều đáng trân trọng. Họ rất khó chấp nhận quan điểm, không có một cái tôi nào tồn tại thực sự cả và không có một tài sản tuyệt đối, một thứ quyền lực nào tồn tại tuyệt đối mãi mãi. Sự thờ ơ, vô cảm và thiếu hiểu biết đặc biệt của tầng lớp lãnh đạo là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới các cuộc khủng hoảng ngày nay. Do vậy việc đưa ra và tranh luận về các quan điểm về nguồn gốc thực sự của quyền lực, sự sang giàu hay nghèo đói, nghĩa vụ của mỗi người đối với người khác, với các loài khác, và với cả bản thân môi trường tự nhiên là điều rất quan trọng.

Lời khuyên đầu tiên của Long Thọ đối với vị vua đi thẳng vào vấn đề quan điểm về tài sản và sự sang giàu. "Nếu quý ngài không có đóng góp gì vào phần của cải thu được từ vị vua đời trước, mà chỉ tham đắm tài sản, không biết cách trân trọngtri ân, quý ngài sẽ không thể sang giàu trong tương lai.”

Lời khuyên trên chỉ ra sự tự lợi, ích kỷ chính là nguyên nhân của đói nghèo, và tấm lòng rộng lượng, biết bố thí chính là nhân của sự sang giàu. Trước hết sự giàu có của một cá nhân bắt nguồn từ những đời trước hay từ những việc làm trước ngay trong đời này. Thứ hai, sự giàu có của một người là do bởi sự bố thí, lòng hào hiệp của người khác mang lại, và như vậy vì bất kỳ lý do nào, người đó cũng phải luôn tri ân họ. Đặt vấn đề về cuộc sống đời trước là không dễ chấp nhận đối với con người xã hội hiện đại, mặc dù trên thực tế rằng những người giàu ngày nay thường được thừa hưởng từ các thế hệ trước đã làm việc chăm chỉ và mang lại tương lai cho chính họ.

Một vị vua ở đỉnh cao quyền lực và sự sang giàu nhưng nếu biết nhìn theo lý nhân duyên hay sự tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng, sẽ thấu hiểu được sự sang giàu, quyền lực của mình phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Quyền lực, sự sang giầu của nhà vua là do kế thừa từ đời trước, là do sự ủng hộ của quan lại và trên hết là do tiền thuế của người dân đóng góp vào ngân khố quốc gia. Nếu không có những điều kiện ấy, nhà vua không thể có được quyền lực, sự sang giầu. Bởi vậy là một nhà cầm quyền phải biết trân trọng, tri ân những điều kiện, những người dân đã mang lại địa vị cho mình, bằng cách biết tạo ra những chính sách mang lại lợi ích thiết thực cho người dân để đền đáp lòng tốt của họ. Một lối sống chỉ biết hưởng thụ và tích lũy cho riêng mình, cho dòng tộc mình sẽ chỉ sớm kết thúc ở đói nghèo và khổ đau. Những suy nghĩ thiển cận, tâm lý luôn bất mãn, luôn tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn, sự tham lam đều là những kẻ thù thật sự. Ngược lại lòng khoan dung sẽ giúp tất cả mọi người thành bằng hữu. Sự trân trọng, tri ân, biết rộng lượngbố thí là cội rễ của đời sống bởi nó mang lại hạnh phúc đích thực. Một thứ hạnh phúc vượt trên những thói quen cố hữu thông thường, thói quen chỉ hướng tới cái tôi ích kỷ.

Điểm quan trọng nhất của sự bố thí hay lòng hào hiệp là không chỉ là cho đi những tài sản vật chất, mặc dù nó là một phần tự nhiên của tâm quảng đại. Giá trị lớn nhất đối với con ngườitự do, đức hạnh. Những phẩm hạnh này chỉ có thể đạt được bằng cánh cửa của giáo pháp, chân lý siêu việt về lòng vị tha, tính không, sự cởi mở và v.v... Do đó, ngài Long Thọ đã khuyên vị vua nên biết mang lại cho xã hội một hệ thống giáo dục. Với ông, hệ thống giáo dục của một xã hội không phải thuần túy để phục vụ xã hội hay đơn thuần tạo ra những công nhân, viên chức chuyên nghiệp. Hệ thống giáo dục là ngưỡng cửa giúp mỗi cá nhân đi tới giải thoáthạnh phúc đích thực. Đây là bộ não của thiết chế chính trị. Xã hội không có mục đích gì khác là thúc đẩy giá trị này. Đó là ngưỡng cửa đi tới giải thoáthạnh phúc đích thực của xã hội. Bằng cách ban tặng cho mọi người món quà của giáo dục, họ sẽ có được sự tự do, tự chủ, sự hiểu biết, sự lựa chọn, tất cả được tóm gọn trong ngôn từ giác ngộ. Sự tiến hóa của con người được xem xét trong sự biến đổi về giáo dục. Xã hội trở nên có ý nghĩa khi nuôi dưỡng giáo dục. Cuộc sống thật đáng sống khi coi trọng giá trị giáo dục. Và do đó, theo ngài Long Thọ, "hoàng gia" trước hết cần phải hỗ trợ nền giáo dục phổ cập, toàn diện, không giới hạn bất kỳ cá nhân hay nhóm người nào. Ông đã đưa ra một tiêu chí cụ thể của hệ thống giáo dục, "thiết lập các trung tâm giáo dục, các tổ chức theo tiêu chí của 3 ngôi Tam bảo, bởi mục tiêu và các phẩm chất theo tiêu chí này mang lại hạnh phúc đích thực.”

Ở đây ông không đề cập đến việc tạo ra "các trung tâm Phật giáo" theo nghĩa như một trung tâm tôn giáo. Vấn đề không phải là biểu tượng cho một loại chủ nghĩa bảo trợ nào đó mà có chức năng mang lại sự giải thoáthạnh phúc đích thực. Long thọ nhấn mạnh nhiều lần một cách rõ ràng rằng, "các hệ thống đức tin", "quan điểm giáo điều", "tư tưởng cuồng tín", v.v..., là những căn bệnh cần được chữa bằng toa thuốc tính Không.

Đó không phải là những trung tâm truyền giáo cho bất kỳ "hệ thống niềm tin" cụ thể nào, thậm chí nếu có mang mác nhãn là "Phật giáo”. Thay vào đó, ông muốn không gian xã hội tràn đầy những cánh cửa để đi tới chân lý đích thực, được trang bị bằng giáo pháp và sự thực hành, ở đó "những sự vật", "những bổn phận", "pháp luật", "tôn giáo", "học thuyết" v.v..., có thể được suy xét, đánh giá, chỉ tríchsử dụng. Những thiết chế này được thiết lập theo tiêu chí của ba ngôi Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng. Bằng hướng luận giải không theo phương thức tôn giáo, hoàn toàn phù hợp với văn phong Trung đạo của mình, ngài Long thọ lập luận rằng, ba ngôi Tam bảo mang lại lợi lạc tối đa ở bất kỳ hoàn cảnh nào trong xã hội thế tục. Trong phạm vi xã hội nói chung, đức Phậtlý tưởng của những người có học vấn, người đã khai mở đầy đủ tiềm năng bản thân, hoàn toàn biết đủ và có năng lực mang lại sự hài lòng cho những người khác. Phật không phải là một vị trời, không phải là một đối tượng thờ cúng, nhưng một đối tượng kính ngưỡng, là nguồn cội của giáo pháp mang lại hạnh phúc đích thực. Ngài là một tiêu chuẩn của sự thành tựu. Pháp là giáo pháp, chân lý mang lại hạnh phúc đích thực mà chính ngài đã thể nghiệm và tất cả mọi người khi được giáo dục theo giáo pháp đó cũng đều có thể đạt được hạnh phúc tương tự. Tăng đoàncộng đồng của những người cống hiến để thực hành giáo pháp này với mong muốn sẽ trở thành Phật và luôn giúp đỡ tất cả mọi người đạt tới hạnh phúc đích thực. Theo nghĩa hẹp, Tăng đoàn là những người không sở hữu tài sản, họ không tham gia vào các hoạt động xã hội thế tục như: kinh doanh, ngành nghề, gia đình, và v. v... Tuy nhiên, điều Long Thọ bàn ở đây chủ yếu theo nghĩa rộng. Tăng đoàn ở đây là những con người biết điều chỉnh, làm chủ được thân tâm mình, họ luôn biết đặt lợi ích của tha nhân lên trên hết trong mọi suy nghĩ, việc làm của mình. Với những phẩm chất đó, họ cũng tham gia vào các mô hình sinh hoạt đời sống thế tục, có thể là những chuyên gia trong giảng dạy và thực hành hay bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội mà không nhất thiết phải sống đời sống tự viện.

Các thiết chế được thiết lập theo các tiêu chí đó và với những con người như vậy sẽ có nhiều người tới học hỏi bởi họ hiểu được rằng, đó thực sự là những ngưỡng cửa dẫn tới một lối sống cao quý hơn, một sự nhận thức cao quý hơn, sự cảm nhận đầy đủ hơn và một nền tri thứcgiá trị hơn. Họ giành được sự tôn trọng tối đa bởi là những người đã phát triển và nuôi dưỡng các phẩm chất cao quý trong mình, đã từ bỏ các thói quen, tập khí tiêu cực được huân tập trước đây của bản thân một cách tự nhiên, và một cách tràn đầy tình yêu thương, nhân ái, họ mang lại sự trợ giúp quý báu cho sự tiến bộ của tha nhân tuỳ theo khả năng và khuynh hướng của mỗi người.

Tiếp đến ngài Long Thọ đưa ra tiêu chí quan trọng cho một thiết chế giáo dục: không được thiết lập trong sự phụ thuộc, để phục vụ riêng cho giới thượng lưu của xã hội đương thời, hay chỉ chuyên cung cấp sự rèn luyện kỹ năng chuyên nghiệp và truyền bá tư tưởng. Người thầy và học trò phải sống một đời sống trong sạch, coi trọng chân lý hơn tất cả các lợi ích cá nhân. Họ phải mạnh mẽ phê phán tất cả các lầm sai, lừa đảo, si mê, giả danh. Vì vậy, các bài luận, những lời dạy của họ phải rõ ràngthẳng thắn hướng tới tất cả các thành phần người trong xã hội, từ những người thấp kém tới giới thượng lưu và cả nhà nhà vua, làm sao để họ đều phải biết sợ hãi khi nhận thấy những hậu quả do sự lừa dối và lỗi lầm của họ, đồng thời khích lệ họ sống và hành động một cách trong sạchminh bạch. Nếu những thiết chế này không được vận hành tự do như vậy thì không nên thiết lập chúng làm gì.

Ngài Long Thọ cũng coi trọng vấn đề kinh tế trong lĩnh vực này, khi nhấn mạnh tới ưu tiên phân bổ cho giáo dục, ông đã giành cho 5 câu kệ tiếp theo để thuyết phục nhà vua rằng, tài sản không nên chỉ để tích trữ cho những nhu cầu chưa thiết yếu, và vị vua nên tìm cách hỗ trợ giáo dục bậc cao. Ông liên tục nhắc nhở về cái chết của nhà vua trong tương lai, làm thế nào những đóng góp như vậy sẽ là một sự đầu tư cho phát triển tương lai của chính nhà vua, những cách thức mà người kế vị ngôi vua sẽ có thể lãng phí ngân khố quốc gia, làm thế nào hạnh phúc sẽ tới từ việc sử dụng rộng lượng, bố thí tài bảo, chứ không phải từ việc tích trữ và lãng phí, và sẽ như thế nào nếu cuối cùng nhà vua không thực thi những điều đó ngay bây giờ khi còn trẻ và còn kiểm soát được các quan lại dưới quyền. Quan lại có thể sẽ không tôn trọng mong muốn đó của vua ngay khi nhìn thấy rõ ràng về cái chết của ông đến cận kề.

“Đến khi quý ngài phải rời bỏ đời sống này

Đó là lúc cũng phải rời bỏ tất cả tài sản

Tất cả các tài sản của vị vua trước

Đều dưới sự kiểm soát của vị vua kế nhiệm,

Trong số những tài sản của vị vua trước,

Đâu là thứ được dùng cho hạnh phúc

hay chỉ cho danh tiếng của ông ta?

Chỉ khi biết xả bỏ, bố thí tài sản,

Mới có hạnh phúc ngay tức thời và trong tương lai

Lãng phí tài sản mà không bố thí

Sẽ chỉ nhận lấy khổ đau khôn cùng

Bằng cách nào để có hạnh phúc?

Bởi vì bất lực lúc hấp hối,

Quý ngài sẽ không thể lệnh ban tặng

Tài sản thông qua các quan đại thần

Họ sẽ không ngại ngùng vứt bỏ lòng tôn kính lên quý ngài,

Và chỉ sẽ tìm cầu làm vừa lòng vị vua mới.

Bởi vậy, trong khi sức khỏe còn dồi dào,

Hãy lập Trung tâm Giáo dục bằng tài sản của mình,

Bởi quý ngài cũng đang sống giữa bao nguyên nhân dẫn tới cái chết

Giống như ngọn đèn trước cơn gió mạnh.

Những chính điện và Trung tâm giáo dục được thiết lập bởi các vua đời trước cũng cần tiếp tục được duy trì.”

Từ những nguyên tắc xây dựng đất nước với trọng tâm là phát triển giáo dục, ngài Long Thọ đi tới các nguyên tắc của việc quản lý bộ máy quan lại, đặc biệt với vấn đề bổ nhiệm các quan lại như tể tướng, quan văn, quan võ, quan tòa, và cảnh báo về những điều kiện thực sự của vương quốc.

Sự lựa chọn các quan lại như tể tướng, thượng thư, các tướng văn, tướng võ cần được xác định bởi tiêu chí họ có thực hành giáo pháp hay không, và họ có thể hiện tính trung thực, rộng lượng, lòng nhân ái và thái độ, hành vi đối xử không phân biệt trong đời sống, trong công việc hay không. Ngay cả với những người như vậy, người cai trị nên tiếp xúc thường xuyên với họ và không ngừng nhắc nhở họ về mục đích tổng thể và mục đích của các quốc gia: đó là giáo pháp, thực chứng, sự thực hành chân lý mang lại hạnh phúc đích thực. "Nếu vương quốc của ngài tồn tạichân lý, chứ không vì mục đích danh vọng, sự sang giầu hay lối sống tiêu thụ thì sẽ vô cùng lợi lạc; nếu không tất cả cuối cùng sẽ vô ích" Trong điều kiện ngày nay, những quan điểm này vẫn phù hợp với các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Các nhà lãnh đạo, quản lý cần phải là những người có tầm nhìn rộng mở, có năng lực mang lại lợi ích cộng đồng, tổ chức mình nhưng đồng thời cũng biết tôn trọng lợi ích cho các tổ chức, cộng đồng khác. Biết đặt bản thân, cộng đồng mình trong mối tương quan với các cộng đồng, tổ chức khác. Một nhà lãnh đạo, quản lý cũng phải là người biết gương mẫu trong lối sống, trong công việc. Đó không thể là một người có lối sống ích kỷ, hưởng thụ. Một quan điểm tự lợi, ích kỷ trong lối sống và công việc sẽ chỉ đưa cá nhân người lãnh đạo và tổ chức đó đi tới thất bại.

Về vấn đề công lý, ngài Long Thọ nói với nhà vua nên bổ nhiệm quan tòa có kinh nghiệm, có trách nhiệm, được giáo dục tốt, có đức hạnhdễ chịu, và ngay cả như vậy, vua vẫn nên can thiệp để quan tòa thực thi lòng từ và bi đối với tội phạm. "Ngay cả khi họ đã đưa ra hình phạt công minh trừng trị tội phạm thì ngài vẫn nên đối xử với tâm từ và bi, luôn chăm sóc tới người phạm tội. Hỡi đức vua, với tâm từ và bi, ngài nên luôn khởi phát một thái độ giúp đỡ, đối với tất cả, thậm chí là những người đã từng phạm tội ác khủng khiếp nhất. Đặc biệt hãy hướng tâm từ và bi tới những kẻ mắc tội sát nhân, tội ác của họ vô cùng tàn khốc; những người mà bản chất bị đánh mất cần nhận được lòng từ bi của những người có phẩm chất vĩ đại". Ngài Long Thọ đi vào vấn đề trung tâm liên quan tới bạo lực và bất bạo động trong một xã hội, các vấn nạn sát nhân và sự trả thù. Lấy đi mạng sống của người khác là hành động bạo lực tồi tệ nhất, đặc biệt là ở các quốc gia coi trọng giá trị giải thoátgiác ngộ, nơi mà đời sống làm người báu giá được trân quý. Nhưng vì thế mà lại tiếp tục lấy đi một đời sống nữa để trừng phạt thì có nghĩa là bạo lực chất thêm bạo lực, và vì vậy hình phạt tử hình cần nên được bãi bỏ. Hình phạt cũng có nghĩa là làm sao để giúp mang lại cho họ một đời sống có ý nghĩa. Hình thành nguyên tắc này có thể được ghi lại sớm nhất trong lịch sử nhân loại. “Trong trường hợp người tù chưa được trả tự do, họ nên được trang bị một hệ thống phục vụ tốt như: được tắm rửa, thực phẩm, đồ uống, thuốc men và quần áo. Cũng như những đứa con trai thiếu phẩm hạnh đã bị trừng phạt nhưng xuất phát từ một mong muốn giúp chúng thiết lập lại giá trị làm người, bởi vậy hình phạt cần được thực thi với tâm từ và bi chứ không phải bắt nguồn từ hận thù hay những quan tâm về tài sản. Một khi đã xem xét những kẻ sát nhân và phán xử chúng một cách chính xác, ngài nên xét xử chúng mà không áp dụng tử hình hay sử dụng các nhục hình với tội phạm này.”

Việc đối xử bất bạo động với tội phạm, thậm chí kẻ sát nhân như thế là phù hợp với mọi nguyên tắc giáo lý Phật giáo. Thứ nhất, dựa trên tâm từ và bi, ở đây tâm từ bi cần phải được mở rộng tới tất cả các đối tượng, đặc biệt các đối tượng rất khó khởi phát lòng yêu thương; hơn nữa đối với xã hội, hành động trừng phạt bằng tử hình, tức là sát hại, một cách gián tiếp tạo ra ví dụ xấu. Thứ hai, giáo lý vô thường, trong đó tâm thức của mọi chúng sinh có thể chuyển hóa, và một hành động xấu ác trên thực tế không nhất thiết có nghĩa một thói quen bất biến luôn làm điều xấu. Thứ ba, vị tha ngụ ý tin tưởng tuyệt đối vào sự phục hồi nhân phẩm của bất kỳ cá nhân nào. Thứ tư, dựa trên sự tôn quý và giá trị của đời sống, đặc biệt là cuộc sống làm người.

Trong thời hiện đại, nhiều thiết chế trong các xã hội hiện đại cuối cùng đã bãi bỏ án tử hình.Tương tự như vậy, cũng có nhiều tranh luận, nhiều áp lực về chính trị và xã hội một cách mạnh mẽ đòi duy trì hoặc khôi phục lại hình phạt này. Trong một bối cảnh đó, thật đáng kinh ngạc khi ngài Long Thọ đã đặt ra nguyên tắc rõ ràng này gần 2 ngàn năm về trước trong điều kiện thực tế cụ thể như vậy.

Ngài Long Thọ đã đưa ra lời khuyên cụ thể liên quan đến chính sách xã hội phổ quát: "Hãy mang lại các điều kiện cho người mù, người bệnh, người nghèo, những người không được bảo vệ, những kẻ khốn cùng, người tàn tật, tất cả đều có được thức ăn và đồ uống mà không bỏ sót một ai." Ông không bàn chi tiết về các chính sách cụ thể cho vấn đề này. Tuy nhiên có thể thấy ông cho rằng hiển nhiên nhà vua phải có nghĩa vụ phải chăm sóc cho tất cả mọi người dân trong vương quốc của mình.

Điều này hoàn toàn đúng trong các thiết chế chính trị nào, người lãnh đạo, nhà cầm quyền phải có bổn phận, có đầy đủ năng lực xây dựng, duy trì hệ thống phúc lợi xã hội, đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của bất kỳ người dân nào, của bất kỳ nhóm xã hội nào. Nhà lãnh đạo cũng không thể vì lợi ích của bất kỳ một nhóm thiểu số nào mà lãng quên hay lạm dụng các chính sách xã hội phục vụ người dân.

Long Thọ cũng cảnh báo về kiểu “chủ nghĩa lý tưởng không thực tế" có xu hướng cản trở những lời khuyên này. Vì vậy ở câu kệ kết thúc, ông đã đưa ra một vấn đề rất thực tế. "Hãy duy trì sự kiểm soát và giám sát vương quốc thông qua những con mắt của các kênh trung gian; một cách cẩn trọngtỉnh thức, hãy luôn luôn hành động phù hợp với các nguyên lý đã nêu ở trên". Một hệ thống kết nối, liên lạc giữa vua và người dân là rất cần thiết. Nhà vua phải biết những gì đang thực sự diễn ra trong vương quốc của mình để ngăn cản những sự lạm dụng các thảm họa. Trong điều kiện hiện đại, ngài Long thọ đề cập đến các kênh trung gian để thu thập những thông tin chính xác về tình trạng của người dân. Về mặt lý thuyết, nếu các nhà lãnh đạotrách nhiệm của tất cả các quốc gia thực sự có đầy đủ các thông tin về các kết quả các hành động của mình, họ chắc chắn sẽ dễ dàng chấm dứt hành chính sách sai lầm, tự hủy hoại bản thân mà họ hiện đang thực thi. Khi ấy họ cũng sẽ dễ dàng đưa ra các chính sách thực tế, đáp ứng đúng được nhu cầu của người dân.

Ngài Long Thọ tóm tắt lời khuyên thiết thực của mình bằng một ẩn dụ dễ chịu: "Người dân giống như những chú chim sẽ đậu xuống cái cây hoàng gia đang bóng mát của lòng khoan dung, nó nảy nở với những bông hoa của danh dự, và cung cấp các loại trái cây rộng rãi như những phần thưởng tuyệt vời.” Khoan dung, sự bình đẳng và lòng hào hiệp không chỉ đơn thuầnlý tưởng xa vời, một loại "siêu nghĩa vụ" chỉ có ở một vài vị thánh và hiện thân ở những anh hùng, mà đó là những thành phần thiết yếu của bất kỳ chính sách xã hội thực tế nào. Các nhà cầm quyền hay chính phủ phải thể hiện các phẩm chất đó trước hết thông qua các chính sách xã hội, và đồng thời mỗi người dân cũng phải nỗ lực để nuôi dưỡng các phẩm chất đó. Vì thói quen kết tập nhiều đời sẽ không tự động có xu hướng chuyển ngay lập tức ra khỏi sân giận, si mê, và tham lam theo hướng khoan dung, công lý, và lòng hào hiệp nên những đức tính này cần phải được nuôi dưỡng dần dần từng bước một. Mỗi cá nhân phải thực hiện những đức tính cho lợi ích của chính bản thân mình. Khi ấy hòa bình sẽ thể hiện đúng bản chất là biểu hiện của lòng khoan dung; giáo dục phổ cập là sự biểu hiện của xã hội trí tuệbình đẳng; và sự chia sẻ tài sảnsự thể hiện của lòng hào hiệp và đức bố thí trong xã hội.

Ngoài ra, ngài Long Thọ cũng cho rằng nếu một người cầm quyền không thể thực thi một nền chính trị như vậy thì người đó nên từ bỏ địa vị để theo đuổi sự giải thoát trước đã. Lời khuyên này có điểm khác với nhiều quan điểm của các hệ thống chính trị khác, coi sự cai trị, quản lý và công việc của nhà cầm quyền là quan trọng nhất. Họ cho rằng “bổn phận thiêng liêng" của nhà vua, "trách nhiệm tối cao" của người đứng đầu, nhà vua phải đặt lợi ích, nhu cầu của tập thể lên trước nhu cầu, lợi ích của mình, triệt tiêu lợi ích cá nhân vì lợi ích tập thể, và trong tiến trình đó phải đảm bảo rằng tất cả các cá nhân trong xã hội ít quan trọng hơn so với ý chí tập thể. Đây thực chấtquan điểm của nhà nước toàn trị khi mà lợi ích và sự viên mãn của cá nhân bị đè nén dưới danh nghĩa sự giải thoát cho tất cả người dân nhưng mấu chốt là không phải mỗi cá nhân đơn lẻ được giải phóng. Đối với ngài Long Thọ, không có cách nào để giải phóng mọi người nếu mỗi người không được giải phóng, và trong một vương quốc, sự giải phóng phải bắt đầu trước hết từ chính cá nhân nhà cầm quyền.

Trên thực tế, ý nghĩa của lời khuyên này không phải là không coi trọng lợi ích của tập thể. Nhưng các lợi ích tập thể là không là gì khác ngoài tổng thể các lợi ích cá nhân. Dù cho phạm vi một xã hội có được bao nhiêu vinh quang hay tài sản nhiều đến cỡ nào đi nữa thì mỗi cá nhân trong đó cũng vẫn sẽ trải qua bệnh, tuổi già và chết đi. Tập thể không thể giúp mỗi cá nhân vượt trên cái chết. Chỉ bằng sự trí tuệ của cá nhân mỗi người về bản chất chân thực của mình và thế giới, sự tự do khỏi một quan điểm về cái tôi bất biến, thì khi đó mỗi người mới làm lợi ích thực sự cho xã hội. Hơn hai phần ba nội dung của kinh văn chứa các hướng dẫn về điều này.

Bằng cách kết hợp quan điểm sâu sắc về bản chất của cá nhân với trách nhiệm chung với cộng đồng, ngài Long Thọ đã đưa thêm một chiều hướng mới về mặt tư tưởng không chỉ cho sự phát triển của Phật giáo mà còn cho sự phát triển của bản thân xã hội Ấn Độ đương thời.

Tiến sĩ Robert Thurman

La Sơn Phúc Cường, dịch từ Nagarjuna’s Guidelines for Buddhist social ations, Robert Thurman, Engaged Buddhist Reader, Paralax press, 1996.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14781)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14758)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17790)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15471)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38468)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26568)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39503)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50610)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34872)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18185)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16339)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42227)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35424)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17387)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17045)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28393)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18903)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17491)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17019)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17449)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16431)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16774)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30671)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16853)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18391)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18335)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17288)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18033)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 16986)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23315)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16874)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17367)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17539)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 16953)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15640)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17929)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17291)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17102)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29362)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27561)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18080)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16033)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15277)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14714)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 54954)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14061)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13176)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14065)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15406)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13093)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19239)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24434)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15636)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37668)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13379)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13014)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant