Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tương Ưng Và An Trụ

06 Tháng Sáu 201704:50(Xem: 6465)
Tương Ưng Và An Trụ

TƯƠNG ƯNG VÀ AN TRỤ 

Nguyễn Thế Đăng


Tương Ưng Và An Trụ


Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để tương ưng và an trụ nơi chân lý ấy để “có thể thấy biết như chân lý:

Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Mà hay bình đẳng nói
Thường trụ tánh bình đẳng.
Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Như lý hay thấy biết
Bèn được khéo tương ưng…
Thuần một không trái cãi
Dứt tranh luận, tương ưng
Thành tựu tam muội ấy
Như lý mà an trụ.
Trong nghĩa lý các pháp
Như lý chuyên tu tập
Thấy được các cửa pháp
Đây là người thấy pháp
.

Tu hànhtương ưng và an trụ trong pháp tánh. Tương ưng là thấy biết đúng như lý, như chân lý. Để có thể “thấy Pháp” thì phải quán sát như lý, đúng theo chân lý tánh Không, ánh sáng, và như huyễn. Đây là ba phương diện, ba chiều kích của thực tại, cả mặt biểu lộ và không biểu lộ.

Quán tánh Không để tương ưng và an trụ trong Pháp thân tánh Không. Ở đây chỉ trích ra một ít đoạn về quán tánh Không.

“Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy nhẫn đến có chút pháp nào ở trong, ở ngoài, ở trung gian mà có thể hướng đến được, thân cận được. Đã không có chút pháp nào để hướng đến được, thân cận được, thì ở trong ấy con an lập cái gì?

Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy quá khứ hiện tại vị lai để làm chỗ an lập. Nếu chỗ an lập đã vô sở hữu, con có thể an lập ở chỗ nào?”.

Không thấy có chút pháp nào tức là thấy Vô tướng. Không thấy quá khứ hiện tại vị lai làm chỗ an lập tức là thấy Vô niệm. Đây là cái Tại đây, không có tướng, không có không gian nên mở khắp tất cả nơi chốn; là cái Bây giờ, không có tưởng niệm nên không có thời gian, trùm suốt ba thời.

“Các Đại Bồ-tát nơi nghĩa lý pháp mà an trụ. An trụ như vậy là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có chỗ phân biệt. An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi lý Chân như, tương ưng với Chân như bất động, tương ưng với lý Chân như vốn không nắm giữ”.

Tâm không phân biệt thì thấy tất cả pháp không động, đó là an trụ Chân như hay tánh Không bất động.

Thấy các pháp vô sanh, đó là thấy tánh Không vô sanh. Và vô sanh cũng là vô niệm, tất cả pháp vốn không chỗ động: “Dùng ấn vô sanh ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn sanh chánh trí thấy vô sanh. Dùng ấn vô niệm ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô phân biệt chân thật bình đẳng”.

Tu hành như vậy trong từng niệm niệm, thì trong từng niệm niệm hành giả tương ưng và an trụ tánh Không.

Về ánh sáng các pháp, kinh nói như sau: “Này Vô Biên Huệ! Các Đại Bồ-tát ở nơi môn tất cả pháp vô chướng ngại, môn chẳng hòa hiệp, môn vượt khỏi mọi đoạn kiến thường kiến, môn bờ mé vô biên, vì xa lìa vậy, vì tịch diệt vậy, vì dừng dứt vậy, vì trong mát vậy. Các Đại Bồ-tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp môn ấy mà được tam muội hải ấn, ấn tất cả pháp. Các Đại Bồ-tát khéo tu hành, an trụ nơi tam muội hải ấn ấn tất cả pháp, quan sát tất cả pháp mà có thể phát sanh vô lượng vô biên ánh sáng đại pháp”.

Tam muội hải ấn ấn lên tất cả pháp khiến tất cả pháp tịch diệt, và khi tất cả pháp tịch diệt thì ánh sáng tất cả pháp hiển lộ. Nói cách khác, tam muội hải ấn, cũng tức là tâm, vừa là tánh Không tịch diệt, vừa là ánh sáng các pháp, mà người xưa gọi là Không-Minh vậy.

Bồ-tát vì đại bi mà sống trong sanh tử, trong thế gian khổ, vô thường, bất tịnh… xoay vần bởi nghiệp của chúng sanh, nhưng vì mặc mũ giáp thấy các pháp là như huyễn nên Bồ-tát không bị nhiễm ô bởi khổ đau, bởi nghiệp của chúng sanh. Thí như người mặc giáp đi vào chốn binh đao khói lửa để cứu người nhưng không bị tổn hại bởi gươm giáo; thí như người mặc bộ áo chống vi trùng thì vào nơi dịch bệnh mà không bị nhiễm bệnh. Không bị nhiễm ô bởi vì thế giới, chúng sanh, nghiệp của chúng sanh đều như huyễn. Nghiệp là hành động, tức sự chuyển động của thân, khẩu, tâm ý; Bồ-tát thì không bị nhiễm ô bởi nghiệp, vì Bồ-tát thấy các pháp đều không động, vì như huyễn:

Các uẩn không có thật
Tự tánh bổn lai Không
Tánh Không nên vô tướng
Tất cả không có khởi.
Các uẩn xa lìa tướng
Lìa tướng thì vô sanh
Không sanh thì không diệt
Tướng các uẩn như vậy.
Cõi dục, cõi vô sắc
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai Không
Vô tướng cũng vô thể…
Vì thấy pháp hư vọng
Gọi đó là chánh quán
Ánh sáng chẳng nghĩ bàn
Vô biênvô lượng.

Quán thấy các pháp như huyễn, đó là “phương tiện thiện xảo” của đại tríđại bi của Bồ-tát ở trong sanh tử. Tất cả các pháp, tất cả thế giới, chúng sanh đều như huyễn, đây là pháp giới bất động hay “pháp giới phương tiện thiện xảo” của Bồ-tát. Chính trong sanh tử nghiệp lực chuyển động của chúng sanh, Bồ-tát giải thoát vì thấy pháp giới bất động:

Thấy tất cả các pháp
nghĩa lý các pháp
Như hư không trong sạch
Như ảnh, bóng trong gương
Bình đẳng không dơ nhiễm
Pháp giới không có sanh
Không có mạng, có già
Không chết, không nổi chìm
Cũng không có ra khỏi.
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
Không đến cũng không đi
Pháp giới chẳng phải uẩn
Chẳng phải giới và xứ
Cũng chẳng rời giới, xứ
Thật không có chỗ động
Pháp giới thường như như.

Bồ-tát đối với sanh tử, với chúng sanh không mệt mỏi, không oán trách, vì đại bi của Bồ-tát là đại bi của tánh Không, của ánh sáng các pháp không phân biệt. Với tánh Không, với ánh sáng các pháp không phân biệt, đại bi của Bồ-tát thấy chúng sanh và nghiệp của chúng sanh như huyễn, do đó cứu độ mà thấy người được cứu độ, hành động cứu độ và người đang cứu độnhư huyễn. Thế nên càng làm việc cứu độ thì càng thâm nhập Pháp thân tánh Không, càng giải thoát.

“Vì mỗi chúng sanh, mỗi mỗi tâm hành, mỗi mỗi lưu chuyển cùng tận bờ sanh tử, nên các Đại Bồ-tát cầm thuốc trí huệ, chẳng lìa bỏ mũ giáp, có thể kiên cố mặc đại mũ giáp, mặc vô lượng mũ giáp…, mặc mũ giáp biết không có chúng sanh, mặc mũ giáp biết tự tánh (như huyễn) của chúng sanh, mặc mũ giáp biết tất cả các pháp vô sở đắc, mặc mũ giáp biết tự tánh các pháp vô sở đắc”.

Trong cùng một thế giới, chúng sanh thì thấy đầy dẫy khổ đau, sanh già bệnh chết, nổi chìm biến động theo nghiệp và tiếp tục tạo nghiệp nổi chìm biến động, còn Bồ-tát thì mặc mũ giáp quán thấy Không, quán thấy ánh sáng vô phân biệt, quán thấy huyễn nên Bồ-tát thấy đó là pháp giới giải thoát “không có tướng khác, bình đẳng, thuần một”, “pháp giới bất động như như”.

Người thì bị các tướng ràng buộc, đó là sanh tử. Người không bị các tướng và danh tự ràng buộc, đây là tự do. Tự do ấy không chỉ ở nơi pháp giới, mà tự do ở nơi mỗi một pháp, tràn ngập nơi mỗi một pháp, vì tướng của mỗi một pháp là sự biểu lộ của tự do:

Ông xem tất cả pháp
Chảy vào trong pháp giới
Các pháp đồng pháp giới
Nghĩa lý đều bình đẳng.
Lại xem nơi pháp giới
Chảy vào trong các pháp
Pháp giới đồng các pháp
Nghĩa lý cũng bình đẳng.

Mặc giáp tánh Không như vậy bởi vì đại bi:

Chúng sanh khổ sanh tử
Bức ngặt chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc giáp trụ vô biên.
Vô biên khổ sanh tử
Tôi khiến giải thoát được
Lưới ái kiến trói buộc
Tất cả đều sẽ đứt.
Với lưới phiền não này
Làm đứt được tất cả
Sức tinh tấn kiên cố
Dũng mãnh mà mặc giáp.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo 01-06-2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13175)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19334)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24581)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15717)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37800)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13456)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13063)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17151)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13180)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17361)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21605)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13200)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14366)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12781)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13639)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28556)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23363)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34345)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32153)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11307)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11991)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26253)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17347)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14508)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34439)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13102)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12265)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13387)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40490)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26898)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14442)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13218)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13439)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12506)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13114)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12291)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11769)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12549)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17647)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12184)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12728)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18423)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14277)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12975)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11307)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12129)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13444)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10822)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11060)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10267)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28855)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25232)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26832)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25726)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18642)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22979)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34496)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32119)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30357)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant