Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Có Những Sự Tái Sinh…

06 Tháng Sáu 201705:06(Xem: 7050)
Có Những Sự Tái Sinh…
CÓ NHỮNG SỰ TÁI SINH…

Chân Hiền Tâm

CÓ NHỮNG SỰ TÁI SINH…


Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Người, Atula hay Súc sinhNgạ quỷ. Một sự tái sinh mà trong đó, thân xác cũ mất đi, thân xác mới xuất hiện, còn phần tâm thức thì vẫn còn đó, chỉ là chuyển giao từ niệm này sang niệm khác một cách liên tục như chính sự nối tiếp không dừng của cái gọi là Phần đoạn sinh tử của chúng sinh.
Ở đây không nói đến loại tái sinh đó; chỉ nói đến loại tái sinh mà thân xác con người vẫn còn đó, nhưng phần tâm thức thì đã chuyển giao, mà bước ngoặt quan trọng nhất trong sự chuyển giao này là “chết”, nhà thiền gọi là “Tuyệt hậu tái tô”. Một sự tái sinh mới xuất hiện trong đời sống con người mà thân xác thì vẫn chưa chết. Một sự thay đổi âm thầm trong một thân xác chưa thay đổi, dưới sự kiểm soát của “một cái’ không thay đổi, như kinh Lăng nghiêmnói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách... Lắng lặng,  gọi là hư không. Diêu động, gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”1

Thiền sư Bạch Ẩn, ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần theo mẹ đi nghe một cao tăng thuộc phái Nhật Liên giảng về tám tầng địa ngục, ông đã run rẩy trong cơn kinh hoảng. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông vẫn không hết sợ hãi khi nghĩ đến việc mình phải vào địa ngục.

Lần khác, khi vào phòng tắm, nhìn thấy nước được đun dưới lửa cháy bùng, ông hoảng hốt hét lớn. Nghĩ đến việc mình phải vào hỏa ngục, ông cầu mẹ cách giải quyết.

Ông được mẹ dạy phải thờ phụng vị thần của đền Katino.

Ông đã thực hành việc này rất nghiêm túc.

Hàng ngày, vào khoảng 2 giờ sáng, ông đến phòng thờ thần Tenjin, niệm danh hiệu ngài liên tụccầu xin thoát khỏi địa ngục. Ngay đêm đầu tiên ông đã thuộc lòng cuốn kinh Tenjin. Nhưng do một việc nhỏ xảy ra cho bản thân, ông nhận ra “Chuyện nhỏ như vậy Tenjin còn chẳng thể che giấu cho ta, làm thế nào có thể trông cậy ngài giúp ta thoát lửa địa ngục?”. Nghĩ rồi, ông từ bỏ Tenjin.

Khi nghe “Không có vị thánh nào của đạo Phật hay Thần đạo có thể sánh kịp với năng lực vô biên của Quán Thế Âm”2 ông bắt đầu nương tựa vào Quán Thế Âmtụng kinh Phổ môn. Chỉ vài ngày sau ông đã thuộc hết phẩm Phổ môn. Ý tưởng xuất gia bắt đầu nhen nhúm khi chứng kiến cảnh Nissin chịu đựng khổ hình một cách an nhiên.

“Cái mũ sắt của Nissin Shunin” là một vở kịch nói về tác dụng của việc trì kinh Pháp hoa. Vở kịch ấy diễn tả lại cảnh lãnh chúa Tokimun hỏi một vị Tăng phái Nhật Liên rằng: “Một người đang thọ trì kinh Pháp hoacảm thấy cái nóng của lửa cháy không?”. Nissin đáp: “Nếu hành trì đúng, người ta có thể vào trong lửa cháy mà không tổn hại, có thể vào trong nước mà không chết chìm”. Nghe vậy, lãnh chúa cho đốt một lưỡi cày, siết chặt vào người Nissin. Trên đầu, ông cho Nissin đội một chảo gang nóng đỏ. Nissin vẫn mỉm cười tự tại. Khán giả rúng động và đều nhất loạt hô to danh hiệu “Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh, Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh…” khi vở kịch chấm dứt.

Do ý tưởng sẽ xuất gia, ông để hết thời gian cho việc học kinh Phật, đọc thơ kệ thiền v.v… Tâm thức sợ hãi địa ngục biến mất, nhường chỗ cho những ngày tháng miệt mài với công phukinh luận. Ông xuất gia khi được 14 tuổi.

Không ít người đã có những sự tái sinh tương tợ. “Đang trầm luân trong bế tắc đau khổ, bỗng nhận được pháp, thấy cuộc đời bừng lên trong hy vọng và thấy mình như được sinh ra một lần nữa”. Nhiều người đã có những cuộc tái sinh như vậy. Nó được coi là một bước ngoặt trong đời sống một con người.

Có những người mà tâm thức tái sinh ở thể dạng nhẹ. Một sự tái sinh mà trong đó, tâm thức chuyển biến từ một cuộc sống không ý thức thiện ác sang có ý thức thiện ác. Một người bỏ công việc sát sinh và chuyển sang một nghề lương thiện. Hỏi vì sao? Họ nói không muốn phạm tội. Họ muốn có một đời sống thanh thản. Họ tin vào nhân quả và thay đổi cuộc sống của họ theo những gì mà họ nghĩ. Đương nhiên, phần tâm thức phải có thay đổi thì hành vi mới thay đổi được. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng ngang việc thiện ác. Dòng tâm thức vẫn tương tục không dứt và họ không ý thức được điều đó. Không biết rằng tâm thức mình đang tương tục không dứt. Họ chú trọng vào hành vi bên ngoài là chính. Suy nghĩ, tính toán, phân biệt vẫn là những gì quen thuộc và thường tình với họ. Tuy vậy, việc chuyển ác thành thiện là một bước ngoặt khá lớn trong đời sống một con người, nhất là vào thời đại này, thời đạichúng sinh xuôi theo nghiệp ác thì nhiều, vận hành nghiệp thiện khá khó khăn. Bước ngoặt đó chính là cái nhân để họ không phải tái sinh vào những cảnh giới khổ sau này.

Có những người tâm thức tái sinh ở dạng rõ nét hơn. Họ thích câu niệm Phật. Bất cứ khi nào có thể, họ đều niệm Phật. Những niệm chúng sinh được thay thế bằng một danh hiệu Phật. Đó là cái nhân cho một sự tái sinh về thế giới Phật hay cảnh giới lành. Tuy vậy, họ không ý thức được về dòng tâm thức đang tuôn chảy của mình, nhưng sự thay đổi đã diễn ra tương đối liên tục ở tâm. Niệm chúng sinh chết đi nhường chỗ cho những danh hiệu Phật. Dòng tương tục vẫn còn đó, nhưng niệm của nó không còn là niệm chúng sinh mà là niệm Phật

Thiền chánh phái có nhiều pháp môn: Tham thoại đầu, Mặc chiếu, Thiền Tịnh song tu v.v… Phương tiện thì nhiều, chung quy là chỉ làm sao chết đi những tâm niệm chúng sinh, giúp chúng sinh trở về tâm chân thật có sẵn trong mỗi người. Phần tâm được gọi là tâm Phật đó, không phân biệtphân biệt, phân biệt mà không phân biệt. Một khi đã nói đến tâm Phật, lấy việc ngộ nhập Phật tâm làm tông chỉ, là nói đến Tổ sư thiền. Các phương tiện nêu trên đều thuộc Tổ sư thiền. Tổ sư thiền hay các loại thiền mà cổ đức gọi là thiền Tiểu thừa hay Trung thừa, phương tiện hành trì đều nhằm dứt bặt dòng tâm thức, nhưng do đích đến khác nhau nên kết quả thành khác nhau. Quả vị của Thanh vănDuyên giác là A-la-hán và Bích chi Phật. Chư vị giải thoát nhưng chưa nhận ra tâm Phật của chính mình. Chưa thấy được sự mộng ảo của thế giới này. Trong khi quả vị của Bồ-tát là Phật quả. Sống được với tâm chân thật thì nhận ra không gì không từ tâm sinh, mọi thứ đều là hư ảo, sinh tử Niết-bàn như hoa đốm trong hư không, tâm chính là tánh của tất cả pháp3

A-la-hán và Bích chi Phật, dòng hiện hành tương tục không còn sinh khởi. Phần đoạn sinh tử của chúng sinh chấm dứt. Chỉ còn phần Biến dịch sinh tử của thánh nhân đang âm thầm chuyển dịch bên trong4. Chư vị không còn tái sinhthế giới chúng sinh nữa. Có chăng chỉ do hạnh nguyện độ sinh.

Đối với Tổ sư thiền, là thiền để trở về tâm Phật của mình, thì dứt bặt dòng tâm thức cũng là việc mà một hành giả tu thiền cần phải làm. Tuy vậy, cái chính không phải để mọi hiện hành đều lắng yên (như hàng La-hán hay Bích chi Phật) mà chính là để dừng đi cái lực của dòng tương tục. Đây muốn nhấn mạnh đến chữ “lực”. Mọi vọng niệm sẽ không còn tác dụng dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử, nếu không có lực này. Lực này do đâu mà có? Do sự huân tậptích tụ. Thứ gì bạn huân tập nhiều, tức bạn đã tạo cho nó thành thói quen thì lực này sẽ xuất hiện. Phật gọi là lực nghiệp. Khi bạn còn tập nghiệp thì bạn sẽ bị cái lực của tập nghiệp này dẫn chạy, chân sẵn đó mà không ngộ nhập được Phật tánh của mình. Bồ-tát hàng phục được lực này, khi độ sinhthế giới Sa-bà, nương nguyện lực mà đi. Cho nên, hành giả tu thiền là để làm mất đi lực này. Diệt vọng hay trừ vọng không phải để hết vọng mà để vọng hiện đúng bản chất của nó. Muốn vọng chính là vọng thì lực của vọng phải mất. Thành có vọng hay không vọng, không quan trọng. Quan trọng là bạn thấy được vọng hay bạn chính là vọng.

Điều quan yếu ở đây là phải một lần nhận ra cái gì là chân, để tin chắc những gì Phật Tổ đã nói là thật, không phải do tin mà làm như trước đây. Sự nhận ra đó gọi là ngộ hay là thực chứng tâm chân thật của mình. Ngộ hay thực chứng diễn tả các trạng thái mà thay vì chúng ta hiểu nó bằng ngôn từ hay suy lường, giờ chúng ta “chứng kiến tận mắt”. (Nói tận mắt nhưng có một “trạng thái” mà không có mắt, tai, mũi lưỡi thân ý mới “tận mắt” được). Như nói tâm không thì bạn phải chứng nhận rõ ràng như thế nào là tâm không ở ngay tâm mình, không phải chỉ dừng ở sự hiểu biết. Tùy căn tánh của từng người mà chúng ta có sự thực chứng này. Có người công phu vài tháng vài năm đã có sự thực chứng. Có người công phu vài chục năm mới có sự thực chứng. Có người đến khi nhắm mắt rồi vẫn chưa có sự thực chứng. Người vài tháng, vài năm đã có thực chứng, vì thiện nghiệp đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Tùy thuộc vào căn nghiệp tu hành đời trước mà chúng tacảnh giới tu chứng ngày nay. Như Lục tổ nghe một câu kinh Kim cang liền ngộ, tám tháng ở nhà trù giã gạo liền thấu được tâm sinh muôn pháp. 

Đại sư Hám Sơn nói về sự chứng ngộ này như sau: “Chứng ngộ là kết quả của sự tham công án bền bỉ và đều đặn. Những người này xô đẩy tâm trí mình đến tận cùng sẽ thấy rằng các tư tưởng của mình hốt nhiên dứt bặt… Như người uống nước, hành giả biết nó nóng hay ấm, không còn chỗ để hoài nghi... Tuy vậy chứng ngộ cũng có nhiều cấp độ. Nếu một người có thể thâm nhập được cái ổ của tám thức, lật ngược lại cái hang mù tối bằng một cái nhảy vĩ đại, lúc ấy chẳng còn gì cho người ấy chứng quả”5. Chứng ngộ có nhiều cấp độ. Bạn có thể thấy tư tưởng mình bỗng nhiên dứt bặt khi đang còn thân tâmcảnh giới trước mắt. Cái ngộ ấy tuy là chân ngộ nhưng chưa phải là triệt ngộ. Triệt ngộ dùng để diễn tả cho việc hành giả thấu triệt tánh Phật của mình. Ở đó không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… như kinh Bát-nhã đã nói. Hoặc như Tổ Pháp Loa nói: “Thấy tánh không phải là có tánh để thấy. Nói thấy là thấy chỗ không thể thấy mà thấy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì chơn tánh hiện…”. Không có năng sở nên không thể diễn tả về nó nhưng không phải không có sự chứng ngộ ở đó để muốn nói gì thì nói.

Nói về vấn đề triệt ngộ này, Đại sư Hám Sơn đã viết: “Cái gọi là “Đốn ngộ tiệm tu”, chỉ cho người đã ngộ được một cách triệt để (triệt ngộ) nhưng vẫn chưa tẩy trừ một lần cho xong tất cả các tư tưởng tập tục trong mình. Người ấy phải “đồng hóa” cái ngộ của mình với tất cả những gì người ấy gặp trong đời sống thường nhật… Hễ cứ một phần tư tưởng khách quan hòa hợp với ngộ, thì một phần pháp thân được khai mở và cứ một phần vọng tưởng tiêu tán thì một phần trí tuệ hiển phát”. Đó là trường hợp mà HT.Trúc Lâm từng nói: “Kiến tánh khởi tu” hay “Đốn ngộ đồng chư Phật, đa sinh tập khí thâm”. Kiến tánh nói đây không dừng ở mặt niềm tin mà đòi hỏi một chỗ thực chứng. Chứng được tánh thể của tất cả pháp. Vì thấy được tánh thể của tất cả pháp, nên nói triệt ngộ, là ngộ được chỗ tột cùng.        

Trở lại dòng tâm thức…

Nếu bạn thấy được dòng tâm thức, nghĩa là bạn không còn chính là dòng tâm thức đó nữa. Nếu bạn thấy chúng đúng là vọng, tức chúng không còn khả năng sai xử bạn nữa. Khi không có duyên, mọi thứ yên lắng. Đủ duyên liền có phương tiện. Thiền sư Hương Hải6 có làm bài kệ: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Dịch “Nhạn bay qua hư không/ Bóng chìm dưới nước lạnh/ Nhạn không ý lưu dấu/ Nước không tâm lưu ảnh”. Cái “không lưu dấu” ấy chính là hoạt dụng của thánh nhân. Chúng sinh niệm niệm lưu giữ, hiện tướng của sự chấp thủ, là hoạt dụng của dòng tương tục.

Nếu bạn chính là vọng thì bạn không thể thấy được vọng. Bạn nhận nó là chính mình, nên bất cứ một tư tưởng nào hiện lên trong tâm, bạn đều là nó. Bạn với dòng tương tục là một. Đủ duyên niệm khởi, bạn không có thời gian để quan sát nên không có thời gian để thấy là nên hay không nên mà tới hay lui. Niệm khởi liền theo cho đúng với những gì chúng ta đã gây tạo với nhau. Có những hành vi mình thấy rất ngu muội nhưng con người vẫn làm, vì nhập chung với dòng tương tục này. Con người trở thành ngu muội vì không ý thức được hết những gì đang xảy ra trong tâm. Vì đã quen nhập chung với dòng tương tục, nên cứ theo dòng tương tục mà đi. Cái quả bất hạnh của người kia trở thành cái nhân khiến người này thành u tối trong những phán xét và hành vi của mình, chỉ vì một dây nhân duyên ràng buộc trong quá khứ.

Để diễn tả thực tế tình trạng có thể phân hai của tâm thức7, kinh Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách… Lắng lặng gọi là hư không. Diêu động gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”8. Chủ và khách không phải là những khái niệm thông dụng đối với người đời khi nói về tâm thức của họ. Ít ai thấy được tâm thức của mình vận hành thế nào. Gì là khách? Gì là chủ? Thiền sư Hàm Thị bàn rằng: “Tâm nơi căn cảnh, do vọng động mà thấy có lăng xăng, nhưng cái thấy được vọng thì không lăng xăng”. Cái thấy được vọng, là chỉ cho việc thấy những tâm niệm đang hiện khởi trong tâm mình. Nếu chúng ta có thể thấy được các tâm niệm của mình - tâm có niệm thấy có niệm, tâm không niệm thấy không niệm, thấy rõ từng cảm xúc hay tư tưởng - thì cũng có nghĩa là mình đã hiểu khách là gì và chủ là ai. Đây là bước đầu giúp chúng ta ngộ nhập lại Phật tánh của mình trong tương lai.

Nói trên lý, mọi việc có vẻ đơn giản. Nhưng trên sự, việc nhận ra dòng tương tục không phải là việc mà ai cũng làm được. Làm được rồi, chưa hẳn đã theo đuổi được đến cùng, để một lần chết đi và sống lại với một tâm thức hoàn toàn mới.

Chan-chen-chi, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, đã nói về quá trình ấy như sau: “Điều đầu tiên mà hành giả thể nghiệm là những vọng niệm không ngớt sinh khởi. Hành giả khám phá ra rằng tâm mình bất trị đến nỗi mình khó mà chế phục nó dù trong một kỳ gian rất ngắn. Vọng niệm trôi chảy như một thác nước, không ngừng lấy một khoảng khắc. Người sơ học cảm thấy mình có nhiều vọng niệm hơn bất cứ lúc nào. Tu định có phần làm niệm tăng gia hơn là giảm thiểu. Nhiều người mới khởi công bị cản trở nghiêm trọngthối chí vì cái kinh nghiệm sơ khởi này. Trong cơn thất vọng, họ bắt đầu hoài nghi tính hữu hiệu của pháp mà họ đang tu tập. Và trở nên hoài nghi ngay cả khả năng nhập định. Rồi họ bắt đầu thay đổi kỹ thuật tu định của họ, từ pháp môn này sang pháp môn khác. Và kết quả là tuyệt vọng hoàn toàn. Cuối cùng bỏ rơi luôn việc tu tập. Sự thật thì những vọng niệm không bao giờ gia tăng. Tu định chỉ làm ta ý thức nhiều hơn về chúng. Chỉ một cái tâm tĩnh mới có thể ý thức được dòng tưởng cho đến nay vẫn luôn trôi chảy mà không được biết đến. Do đó kinh nghiệm tu định này là một dấu hiệu tiến bộ trong việc tu định của mình, không phải là thoái bộ. Hành giả có thể thể nghiệm nhiều tư tưởng đến và đi trong vòng một sát-na…”9.

Ngài Hám Sơn cũng nói10“Khi dụng công được tốt đẹp, các sự vật ở thế giới ngoại tại sẽ không làm phiền chư vị lắm. Nhưng phiền phức ở chỗ là các vọng tưởng sẽ khởi dậy kịch liệt trong tâm trí chư vị mà không có nguyên do rõ rệt nào cả. Đôi khi khát vọng và lòng dục tuôn trào. Đôi khi một nỗi xao xuyến không mô tả được lộ ra. Nhiều trở ngại khác cũng xuất hiện. Tất cả những khó khăn này sẽ làm mệt thân tâm chư vị. Đến nỗi chư vị không biết phải làm gì. Lúc ấy chư vị phải nhận thức rằng tất cả những kinh nghiệm phiền não này là do nỗ lực thiền định của chư vị gây ra, làm hiện hành các chủng tử ẩn sâu trong tạng thức. Ở giai đoạn quyết định này, chư vị phải nhận ra chúng hoàn toàn. Đừng bao giờ để chúng kiểm soát và hoặc loạn”.  

Nếu tâm thức chúng ta có thể vận hành theo cách như thế, chúng ta thật sự có một đời sống tâm thức mới. Một cuộc sống mới đã bắt đầu. 

 Chân Hiền Tâm

______________

(1) Lời của Tôn giả Kiều Trần Như được Phật xác minh là đúng. 

(2) Bạch Ẩn Huệ Hạc & Cuộc đời, ngữ lục, thư pháp, họa phẩm. Thuần Bạch và Ngọc Bảo soạn dịch. 

(3) Tâm do bất giác mà thành thức. Thức là nền tảng từ đó có chúng sinhcảnh giới của chúng sinh. Thức không lìa tâm. Tâm là tánh của tất cả pháp.   

(4) Luận Đại thừa khởi tín. Tổ Mã Minh. Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.

(5) Thiền đạo tu tậpChan-chen-chi. Như Hạnh biên dịch.

(6) Thiền sư Hương Hải thời Hậu Lê (1628 -1715)

(7) Đây là y nơi tâm chúng sinh mà nói. Chúng sinh vẫn lấy vọng cho là chân, chưa phân minh được chân vọng.

(8) Kinh Lăng nghiêm. Lời của Tôn giả Kiều Trần Như được Phật xác minh là đúng.

(9) Như Hạnh chuyển ngữ.  

(10) Phần pháp ngữ của Đại sư Hám Sơn, trong Thiền đạo tu tập - Chan-chen-chi - Như Hạnh chuyển ngữ.
Ý kiến bạn đọc
10 Tháng Sáu 201711:36
Khách
Lối viết khó hiểu dài dòng, dong dải, sử dụng thuật ngữ hán văn khó hiểu và xa lạ, hơn nữa thái độ lúc nào cũng coi đời là ảo vọng đau khổ tràn đầy của các thầy tỳ kheo vn làm cho người ta thấy chán ớn khi nhìn vào đạo phật, nghĩ rằng đây là đạo của mấy người chán đời hay già bệnh gần đất xa trời. Mong các thầy xem lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 80)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 151)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 170)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 226)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 152)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 205)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 193)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 231)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 531)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 769)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 811)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 813)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 704)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 689)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 795)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 818)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 917)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 693)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 588)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 688)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 687)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 791)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 867)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 856)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1044)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1024)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 923)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1178)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1097)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1102)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1245)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1511)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1943)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1056)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1319)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1077)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 925)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1046)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1500)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1255)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1267)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 994)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1157)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant