Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Có Những Sự Tái Sinh…

06 Tháng Sáu 201705:06(Xem: 6961)
Có Những Sự Tái Sinh…
CÓ NHỮNG SỰ TÁI SINH…

Chân Hiền Tâm

CÓ NHỮNG SỰ TÁI SINH…


Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Người, Atula hay Súc sinhNgạ quỷ. Một sự tái sinh mà trong đó, thân xác cũ mất đi, thân xác mới xuất hiện, còn phần tâm thức thì vẫn còn đó, chỉ là chuyển giao từ niệm này sang niệm khác một cách liên tục như chính sự nối tiếp không dừng của cái gọi là Phần đoạn sinh tử của chúng sinh.
Ở đây không nói đến loại tái sinh đó; chỉ nói đến loại tái sinh mà thân xác con người vẫn còn đó, nhưng phần tâm thức thì đã chuyển giao, mà bước ngoặt quan trọng nhất trong sự chuyển giao này là “chết”, nhà thiền gọi là “Tuyệt hậu tái tô”. Một sự tái sinh mới xuất hiện trong đời sống con người mà thân xác thì vẫn chưa chết. Một sự thay đổi âm thầm trong một thân xác chưa thay đổi, dưới sự kiểm soát của “một cái’ không thay đổi, như kinh Lăng nghiêmnói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách... Lắng lặng,  gọi là hư không. Diêu động, gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”1

Thiền sư Bạch Ẩn, ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần theo mẹ đi nghe một cao tăng thuộc phái Nhật Liên giảng về tám tầng địa ngục, ông đã run rẩy trong cơn kinh hoảng. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông vẫn không hết sợ hãi khi nghĩ đến việc mình phải vào địa ngục.

Lần khác, khi vào phòng tắm, nhìn thấy nước được đun dưới lửa cháy bùng, ông hoảng hốt hét lớn. Nghĩ đến việc mình phải vào hỏa ngục, ông cầu mẹ cách giải quyết.

Ông được mẹ dạy phải thờ phụng vị thần của đền Katino.

Ông đã thực hành việc này rất nghiêm túc.

Hàng ngày, vào khoảng 2 giờ sáng, ông đến phòng thờ thần Tenjin, niệm danh hiệu ngài liên tụccầu xin thoát khỏi địa ngục. Ngay đêm đầu tiên ông đã thuộc lòng cuốn kinh Tenjin. Nhưng do một việc nhỏ xảy ra cho bản thân, ông nhận ra “Chuyện nhỏ như vậy Tenjin còn chẳng thể che giấu cho ta, làm thế nào có thể trông cậy ngài giúp ta thoát lửa địa ngục?”. Nghĩ rồi, ông từ bỏ Tenjin.

Khi nghe “Không có vị thánh nào của đạo Phật hay Thần đạo có thể sánh kịp với năng lực vô biên của Quán Thế Âm”2 ông bắt đầu nương tựa vào Quán Thế Âmtụng kinh Phổ môn. Chỉ vài ngày sau ông đã thuộc hết phẩm Phổ môn. Ý tưởng xuất gia bắt đầu nhen nhúm khi chứng kiến cảnh Nissin chịu đựng khổ hình một cách an nhiên.

“Cái mũ sắt của Nissin Shunin” là một vở kịch nói về tác dụng của việc trì kinh Pháp hoa. Vở kịch ấy diễn tả lại cảnh lãnh chúa Tokimun hỏi một vị Tăng phái Nhật Liên rằng: “Một người đang thọ trì kinh Pháp hoacảm thấy cái nóng của lửa cháy không?”. Nissin đáp: “Nếu hành trì đúng, người ta có thể vào trong lửa cháy mà không tổn hại, có thể vào trong nước mà không chết chìm”. Nghe vậy, lãnh chúa cho đốt một lưỡi cày, siết chặt vào người Nissin. Trên đầu, ông cho Nissin đội một chảo gang nóng đỏ. Nissin vẫn mỉm cười tự tại. Khán giả rúng động và đều nhất loạt hô to danh hiệu “Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh, Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh…” khi vở kịch chấm dứt.

Do ý tưởng sẽ xuất gia, ông để hết thời gian cho việc học kinh Phật, đọc thơ kệ thiền v.v… Tâm thức sợ hãi địa ngục biến mất, nhường chỗ cho những ngày tháng miệt mài với công phukinh luận. Ông xuất gia khi được 14 tuổi.

Không ít người đã có những sự tái sinh tương tợ. “Đang trầm luân trong bế tắc đau khổ, bỗng nhận được pháp, thấy cuộc đời bừng lên trong hy vọng và thấy mình như được sinh ra một lần nữa”. Nhiều người đã có những cuộc tái sinh như vậy. Nó được coi là một bước ngoặt trong đời sống một con người.

Có những người mà tâm thức tái sinh ở thể dạng nhẹ. Một sự tái sinh mà trong đó, tâm thức chuyển biến từ một cuộc sống không ý thức thiện ác sang có ý thức thiện ác. Một người bỏ công việc sát sinh và chuyển sang một nghề lương thiện. Hỏi vì sao? Họ nói không muốn phạm tội. Họ muốn có một đời sống thanh thản. Họ tin vào nhân quả và thay đổi cuộc sống của họ theo những gì mà họ nghĩ. Đương nhiên, phần tâm thức phải có thay đổi thì hành vi mới thay đổi được. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng ngang việc thiện ác. Dòng tâm thức vẫn tương tục không dứt và họ không ý thức được điều đó. Không biết rằng tâm thức mình đang tương tục không dứt. Họ chú trọng vào hành vi bên ngoài là chính. Suy nghĩ, tính toán, phân biệt vẫn là những gì quen thuộc và thường tình với họ. Tuy vậy, việc chuyển ác thành thiện là một bước ngoặt khá lớn trong đời sống một con người, nhất là vào thời đại này, thời đạichúng sinh xuôi theo nghiệp ác thì nhiều, vận hành nghiệp thiện khá khó khăn. Bước ngoặt đó chính là cái nhân để họ không phải tái sinh vào những cảnh giới khổ sau này.

Có những người tâm thức tái sinh ở dạng rõ nét hơn. Họ thích câu niệm Phật. Bất cứ khi nào có thể, họ đều niệm Phật. Những niệm chúng sinh được thay thế bằng một danh hiệu Phật. Đó là cái nhân cho một sự tái sinh về thế giới Phật hay cảnh giới lành. Tuy vậy, họ không ý thức được về dòng tâm thức đang tuôn chảy của mình, nhưng sự thay đổi đã diễn ra tương đối liên tục ở tâm. Niệm chúng sinh chết đi nhường chỗ cho những danh hiệu Phật. Dòng tương tục vẫn còn đó, nhưng niệm của nó không còn là niệm chúng sinh mà là niệm Phật

Thiền chánh phái có nhiều pháp môn: Tham thoại đầu, Mặc chiếu, Thiền Tịnh song tu v.v… Phương tiện thì nhiều, chung quy là chỉ làm sao chết đi những tâm niệm chúng sinh, giúp chúng sinh trở về tâm chân thật có sẵn trong mỗi người. Phần tâm được gọi là tâm Phật đó, không phân biệtphân biệt, phân biệt mà không phân biệt. Một khi đã nói đến tâm Phật, lấy việc ngộ nhập Phật tâm làm tông chỉ, là nói đến Tổ sư thiền. Các phương tiện nêu trên đều thuộc Tổ sư thiền. Tổ sư thiền hay các loại thiền mà cổ đức gọi là thiền Tiểu thừa hay Trung thừa, phương tiện hành trì đều nhằm dứt bặt dòng tâm thức, nhưng do đích đến khác nhau nên kết quả thành khác nhau. Quả vị của Thanh vănDuyên giác là A-la-hán và Bích chi Phật. Chư vị giải thoát nhưng chưa nhận ra tâm Phật của chính mình. Chưa thấy được sự mộng ảo của thế giới này. Trong khi quả vị của Bồ-tát là Phật quả. Sống được với tâm chân thật thì nhận ra không gì không từ tâm sinh, mọi thứ đều là hư ảo, sinh tử Niết-bàn như hoa đốm trong hư không, tâm chính là tánh của tất cả pháp3

A-la-hán và Bích chi Phật, dòng hiện hành tương tục không còn sinh khởi. Phần đoạn sinh tử của chúng sinh chấm dứt. Chỉ còn phần Biến dịch sinh tử của thánh nhân đang âm thầm chuyển dịch bên trong4. Chư vị không còn tái sinhthế giới chúng sinh nữa. Có chăng chỉ do hạnh nguyện độ sinh.

Đối với Tổ sư thiền, là thiền để trở về tâm Phật của mình, thì dứt bặt dòng tâm thức cũng là việc mà một hành giả tu thiền cần phải làm. Tuy vậy, cái chính không phải để mọi hiện hành đều lắng yên (như hàng La-hán hay Bích chi Phật) mà chính là để dừng đi cái lực của dòng tương tục. Đây muốn nhấn mạnh đến chữ “lực”. Mọi vọng niệm sẽ không còn tác dụng dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử, nếu không có lực này. Lực này do đâu mà có? Do sự huân tậptích tụ. Thứ gì bạn huân tập nhiều, tức bạn đã tạo cho nó thành thói quen thì lực này sẽ xuất hiện. Phật gọi là lực nghiệp. Khi bạn còn tập nghiệp thì bạn sẽ bị cái lực của tập nghiệp này dẫn chạy, chân sẵn đó mà không ngộ nhập được Phật tánh của mình. Bồ-tát hàng phục được lực này, khi độ sinhthế giới Sa-bà, nương nguyện lực mà đi. Cho nên, hành giả tu thiền là để làm mất đi lực này. Diệt vọng hay trừ vọng không phải để hết vọng mà để vọng hiện đúng bản chất của nó. Muốn vọng chính là vọng thì lực của vọng phải mất. Thành có vọng hay không vọng, không quan trọng. Quan trọng là bạn thấy được vọng hay bạn chính là vọng.

Điều quan yếu ở đây là phải một lần nhận ra cái gì là chân, để tin chắc những gì Phật Tổ đã nói là thật, không phải do tin mà làm như trước đây. Sự nhận ra đó gọi là ngộ hay là thực chứng tâm chân thật của mình. Ngộ hay thực chứng diễn tả các trạng thái mà thay vì chúng ta hiểu nó bằng ngôn từ hay suy lường, giờ chúng ta “chứng kiến tận mắt”. (Nói tận mắt nhưng có một “trạng thái” mà không có mắt, tai, mũi lưỡi thân ý mới “tận mắt” được). Như nói tâm không thì bạn phải chứng nhận rõ ràng như thế nào là tâm không ở ngay tâm mình, không phải chỉ dừng ở sự hiểu biết. Tùy căn tánh của từng người mà chúng ta có sự thực chứng này. Có người công phu vài tháng vài năm đã có sự thực chứng. Có người công phu vài chục năm mới có sự thực chứng. Có người đến khi nhắm mắt rồi vẫn chưa có sự thực chứng. Người vài tháng, vài năm đã có thực chứng, vì thiện nghiệp đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Tùy thuộc vào căn nghiệp tu hành đời trước mà chúng tacảnh giới tu chứng ngày nay. Như Lục tổ nghe một câu kinh Kim cang liền ngộ, tám tháng ở nhà trù giã gạo liền thấu được tâm sinh muôn pháp. 

Đại sư Hám Sơn nói về sự chứng ngộ này như sau: “Chứng ngộ là kết quả của sự tham công án bền bỉ và đều đặn. Những người này xô đẩy tâm trí mình đến tận cùng sẽ thấy rằng các tư tưởng của mình hốt nhiên dứt bặt… Như người uống nước, hành giả biết nó nóng hay ấm, không còn chỗ để hoài nghi... Tuy vậy chứng ngộ cũng có nhiều cấp độ. Nếu một người có thể thâm nhập được cái ổ của tám thức, lật ngược lại cái hang mù tối bằng một cái nhảy vĩ đại, lúc ấy chẳng còn gì cho người ấy chứng quả”5. Chứng ngộ có nhiều cấp độ. Bạn có thể thấy tư tưởng mình bỗng nhiên dứt bặt khi đang còn thân tâmcảnh giới trước mắt. Cái ngộ ấy tuy là chân ngộ nhưng chưa phải là triệt ngộ. Triệt ngộ dùng để diễn tả cho việc hành giả thấu triệt tánh Phật của mình. Ở đó không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… như kinh Bát-nhã đã nói. Hoặc như Tổ Pháp Loa nói: “Thấy tánh không phải là có tánh để thấy. Nói thấy là thấy chỗ không thể thấy mà thấy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì chơn tánh hiện…”. Không có năng sở nên không thể diễn tả về nó nhưng không phải không có sự chứng ngộ ở đó để muốn nói gì thì nói.

Nói về vấn đề triệt ngộ này, Đại sư Hám Sơn đã viết: “Cái gọi là “Đốn ngộ tiệm tu”, chỉ cho người đã ngộ được một cách triệt để (triệt ngộ) nhưng vẫn chưa tẩy trừ một lần cho xong tất cả các tư tưởng tập tục trong mình. Người ấy phải “đồng hóa” cái ngộ của mình với tất cả những gì người ấy gặp trong đời sống thường nhật… Hễ cứ một phần tư tưởng khách quan hòa hợp với ngộ, thì một phần pháp thân được khai mở và cứ một phần vọng tưởng tiêu tán thì một phần trí tuệ hiển phát”. Đó là trường hợp mà HT.Trúc Lâm từng nói: “Kiến tánh khởi tu” hay “Đốn ngộ đồng chư Phật, đa sinh tập khí thâm”. Kiến tánh nói đây không dừng ở mặt niềm tin mà đòi hỏi một chỗ thực chứng. Chứng được tánh thể của tất cả pháp. Vì thấy được tánh thể của tất cả pháp, nên nói triệt ngộ, là ngộ được chỗ tột cùng.        

Trở lại dòng tâm thức…

Nếu bạn thấy được dòng tâm thức, nghĩa là bạn không còn chính là dòng tâm thức đó nữa. Nếu bạn thấy chúng đúng là vọng, tức chúng không còn khả năng sai xử bạn nữa. Khi không có duyên, mọi thứ yên lắng. Đủ duyên liền có phương tiện. Thiền sư Hương Hải6 có làm bài kệ: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Dịch “Nhạn bay qua hư không/ Bóng chìm dưới nước lạnh/ Nhạn không ý lưu dấu/ Nước không tâm lưu ảnh”. Cái “không lưu dấu” ấy chính là hoạt dụng của thánh nhân. Chúng sinh niệm niệm lưu giữ, hiện tướng của sự chấp thủ, là hoạt dụng của dòng tương tục.

Nếu bạn chính là vọng thì bạn không thể thấy được vọng. Bạn nhận nó là chính mình, nên bất cứ một tư tưởng nào hiện lên trong tâm, bạn đều là nó. Bạn với dòng tương tục là một. Đủ duyên niệm khởi, bạn không có thời gian để quan sát nên không có thời gian để thấy là nên hay không nên mà tới hay lui. Niệm khởi liền theo cho đúng với những gì chúng ta đã gây tạo với nhau. Có những hành vi mình thấy rất ngu muội nhưng con người vẫn làm, vì nhập chung với dòng tương tục này. Con người trở thành ngu muội vì không ý thức được hết những gì đang xảy ra trong tâm. Vì đã quen nhập chung với dòng tương tục, nên cứ theo dòng tương tục mà đi. Cái quả bất hạnh của người kia trở thành cái nhân khiến người này thành u tối trong những phán xét và hành vi của mình, chỉ vì một dây nhân duyên ràng buộc trong quá khứ.

Để diễn tả thực tế tình trạng có thể phân hai của tâm thức7, kinh Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách… Lắng lặng gọi là hư không. Diêu động gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”8. Chủ và khách không phải là những khái niệm thông dụng đối với người đời khi nói về tâm thức của họ. Ít ai thấy được tâm thức của mình vận hành thế nào. Gì là khách? Gì là chủ? Thiền sư Hàm Thị bàn rằng: “Tâm nơi căn cảnh, do vọng động mà thấy có lăng xăng, nhưng cái thấy được vọng thì không lăng xăng”. Cái thấy được vọng, là chỉ cho việc thấy những tâm niệm đang hiện khởi trong tâm mình. Nếu chúng ta có thể thấy được các tâm niệm của mình - tâm có niệm thấy có niệm, tâm không niệm thấy không niệm, thấy rõ từng cảm xúc hay tư tưởng - thì cũng có nghĩa là mình đã hiểu khách là gì và chủ là ai. Đây là bước đầu giúp chúng ta ngộ nhập lại Phật tánh của mình trong tương lai.

Nói trên lý, mọi việc có vẻ đơn giản. Nhưng trên sự, việc nhận ra dòng tương tục không phải là việc mà ai cũng làm được. Làm được rồi, chưa hẳn đã theo đuổi được đến cùng, để một lần chết đi và sống lại với một tâm thức hoàn toàn mới.

Chan-chen-chi, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, đã nói về quá trình ấy như sau: “Điều đầu tiên mà hành giả thể nghiệm là những vọng niệm không ngớt sinh khởi. Hành giả khám phá ra rằng tâm mình bất trị đến nỗi mình khó mà chế phục nó dù trong một kỳ gian rất ngắn. Vọng niệm trôi chảy như một thác nước, không ngừng lấy một khoảng khắc. Người sơ học cảm thấy mình có nhiều vọng niệm hơn bất cứ lúc nào. Tu định có phần làm niệm tăng gia hơn là giảm thiểu. Nhiều người mới khởi công bị cản trở nghiêm trọngthối chí vì cái kinh nghiệm sơ khởi này. Trong cơn thất vọng, họ bắt đầu hoài nghi tính hữu hiệu của pháp mà họ đang tu tập. Và trở nên hoài nghi ngay cả khả năng nhập định. Rồi họ bắt đầu thay đổi kỹ thuật tu định của họ, từ pháp môn này sang pháp môn khác. Và kết quả là tuyệt vọng hoàn toàn. Cuối cùng bỏ rơi luôn việc tu tập. Sự thật thì những vọng niệm không bao giờ gia tăng. Tu định chỉ làm ta ý thức nhiều hơn về chúng. Chỉ một cái tâm tĩnh mới có thể ý thức được dòng tưởng cho đến nay vẫn luôn trôi chảy mà không được biết đến. Do đó kinh nghiệm tu định này là một dấu hiệu tiến bộ trong việc tu định của mình, không phải là thoái bộ. Hành giả có thể thể nghiệm nhiều tư tưởng đến và đi trong vòng một sát-na…”9.

Ngài Hám Sơn cũng nói10“Khi dụng công được tốt đẹp, các sự vật ở thế giới ngoại tại sẽ không làm phiền chư vị lắm. Nhưng phiền phức ở chỗ là các vọng tưởng sẽ khởi dậy kịch liệt trong tâm trí chư vị mà không có nguyên do rõ rệt nào cả. Đôi khi khát vọng và lòng dục tuôn trào. Đôi khi một nỗi xao xuyến không mô tả được lộ ra. Nhiều trở ngại khác cũng xuất hiện. Tất cả những khó khăn này sẽ làm mệt thân tâm chư vị. Đến nỗi chư vị không biết phải làm gì. Lúc ấy chư vị phải nhận thức rằng tất cả những kinh nghiệm phiền não này là do nỗ lực thiền định của chư vị gây ra, làm hiện hành các chủng tử ẩn sâu trong tạng thức. Ở giai đoạn quyết định này, chư vị phải nhận ra chúng hoàn toàn. Đừng bao giờ để chúng kiểm soát và hoặc loạn”.  

Nếu tâm thức chúng ta có thể vận hành theo cách như thế, chúng ta thật sự có một đời sống tâm thức mới. Một cuộc sống mới đã bắt đầu. 

 Chân Hiền Tâm

______________

(1) Lời của Tôn giả Kiều Trần Như được Phật xác minh là đúng. 

(2) Bạch Ẩn Huệ Hạc & Cuộc đời, ngữ lục, thư pháp, họa phẩm. Thuần Bạch và Ngọc Bảo soạn dịch. 

(3) Tâm do bất giác mà thành thức. Thức là nền tảng từ đó có chúng sinhcảnh giới của chúng sinh. Thức không lìa tâm. Tâm là tánh của tất cả pháp.   

(4) Luận Đại thừa khởi tín. Tổ Mã Minh. Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.

(5) Thiền đạo tu tậpChan-chen-chi. Như Hạnh biên dịch.

(6) Thiền sư Hương Hải thời Hậu Lê (1628 -1715)

(7) Đây là y nơi tâm chúng sinh mà nói. Chúng sinh vẫn lấy vọng cho là chân, chưa phân minh được chân vọng.

(8) Kinh Lăng nghiêm. Lời của Tôn giả Kiều Trần Như được Phật xác minh là đúng.

(9) Như Hạnh chuyển ngữ.  

(10) Phần pháp ngữ của Đại sư Hám Sơn, trong Thiền đạo tu tập - Chan-chen-chi - Như Hạnh chuyển ngữ.
Ý kiến bạn đọc
10 Tháng Sáu 201711:36
Khách
Lối viết khó hiểu dài dòng, dong dải, sử dụng thuật ngữ hán văn khó hiểu và xa lạ, hơn nữa thái độ lúc nào cũng coi đời là ảo vọng đau khổ tràn đầy của các thầy tỳ kheo vn làm cho người ta thấy chán ớn khi nhìn vào đạo phật, nghĩ rằng đây là đạo của mấy người chán đời hay già bệnh gần đất xa trời. Mong các thầy xem lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2868)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4042)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5201)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4186)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3249)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6244)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5224)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4553)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6112)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6000)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3787)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5920)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4561)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4707)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6203)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4844)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3482)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3410)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5562)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4148)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5932)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5147)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3602)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3678)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3652)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3475)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5263)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3892)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4238)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5755)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3082)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3018)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3768)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4787)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3507)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2984)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4505)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4631)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3382)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3932)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4668)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3478)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3539)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5083)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4048)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3217)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2942)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3048)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3043)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3412)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3945)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5041)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2607)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6056)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2983)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3034)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3224)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3170)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant