Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bốn Pháp An Lạc

15 Tháng Sáu 201705:00(Xem: 7301)
Kinh Bốn Pháp An Lạc
                                                        Kinh Bốn Pháp An Lạc (*)                                                 
 
 Mặc Phương Tử

Kinh Bốn Pháp An Lạc

Nhìn thẳng vào cuộc sống hôm nay, hầu như mọi mặt đều tăng tốc, sự phát triển từ hình thức vật chất đến tâm lý tinh thần của con người. Thế nhưng, sự hiển lộ bên ngoài lẫn với bao dáng vẻ sắc màu của những hiện tượng sự vật, thì ta lại thấy không ít những nỗi đời còn nhiều nghiệt ngã đau thương, thô kệt của những tâm ý khô cứng, bất an, sợ hải và cả những lòng tham ác tàn bạo, gây không ít bao nhiễu nhương cho tự thân, gia đìnhxã hội,
 
Do đó, hạnh phúc và bình yên được Đức Phật nói đến, điều ấy chúng ta thấy không phải là một ngẫu nhiên.
 
Nhân một hôm, Gia chủ Anathapindika (Cấp Cô Độc) đến đãnh lễ Phật, sau đó Đức Phật liền nói với gia chủ như sau :
 
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ? : LẠC SỞ HỮU, LẠC THỌ DỤNG, LẠC KHÔNG MẮC NỢ, LẠC KHÔNG PHẠM TỘI".
 
Trước hết, Đức Phật giới thiệu đến bốn sự việc mà một khi bắt đầu chạm vào sự sống, sự tồn tại của con người, một khi mà con người có được cơ hội làm ra được của cải, hay những phương tiện thọ dụng khác để phục vụ cho sự sống được ngang qua bao ước muốn tìm cầu.
 
"Nầy gia chủ, thế nào là lạc sở hữu ? Ở đây, nầy gia chủ, tài sản của người thiện nam tử thâu hoạch được do nổ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ"
 
Không xa xôi mênh mông, không mơ hồ phi thực, với lời dạy của Phật :
" Đến để mà Thấy, đến để mà Nghe và đến để được Cảm Thọ Sự Thật ".
Đức Phật luôn nghĩ đến hạnh phúcan lạc cho chúng sanh ngay trong hiện tại. Nhất là xã hội chúng ta đang là ngày hôm nay, một khi đã hiển bày cung ứng khá nhiều về sự ăn, sự mặc, chốn ở và những điều kiện phục vụ khác.v.v... Thì lòng tham ác sẽ bén rể và tự phụ của con người được nâng lên từ "dục thủ, dục tầm cầu".
 
Do đó, người con Phật cần phải ý thức tỉnh giác nhận ra rằng: "Tài sản thâu hoạch một cách đúng pháp" chỉ có thâu hoạch đúng pháp do từ công sức chính mình làm ra, thì mới không thấy sự hổ thẹn nơi lương tâmlương tri của mình.
 
Bằng trái lại, là một việc làm vừa đem đến hại mình, vừa đem đến hại người, đem đến hại cả hai, cùng dự phần vào phiền não, gây tổn hại cho gia đìnhxã hội, nguyên nhân từ việc làm phi pháp, phi chơn mà có.
 
"Lại nữa, nầy gia chủ, thế nào là lạc thọ dụng ? Nầy thiện nam tử, khi thọ dụng những tài sản được thâu được một cách đúng pháp và làm các việc phước đức. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ "
 
Chúng ta thấy, Đức Phật còn tiến xa hơn từ lời dạy đầu, nếu như đã có tài sản một cách đúng pháp chơn chánh, thì khi xử dụng vào cuộc sống cũng được an vui từ những thành quả lao động của mình, thấy được giá trị ích lợi và trân quí những điều mình có được, sống hạnh phúc, trong sáng, lành mạnh chân thật, người đệ tử Phật sẽ xử dụng tài sản ấy  vào việc bố thí, giúp đỡ, ban tặng, biếu cho, hoặc làm những việc phước đức khác cũng được điều lợi ích giao cảm chân thiện, tránh được lời người xưa : " Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ".
 
Đành rằng: Hạnh phúc, bình yên là những điều ước muốn, cầu vọng tất nhiên của con người, sự tìm cầu ấy cũng phải qua những đánh đổi trước bao duyên cảnh cuộc đời, tất cả mọi việc được nói lên nguồn sống an lạc vẫn phải từ lòng chinh phục những gian tham, những ác tư duy.v.v...
Bởi :
" Dễ làm các điều ác
Dễ làm điều tự hại
Còn việc lành, việc tốt
Thật tối thượng khó làm"  (Kinh Pháp Cú. 163.)
 
Nhu cầu và khát vọng của con người khó mà được thỏa mãn, đã có biết bao sự rối ren, bế tắt, nguy hại, những độc tố của Tham Sân Si gây ra cho tự thân, gia đìnhxã hội... nguyên nhân cũng từ việc làm bất chính, thu hoạch và xử dụng tài sản bất chính, thọ dụng vô độhoang phí vô ích. Còn nếu nhận thức đúng bản chất trong cuộc sống qua các hiện tượng là "Vô Thường, Khổ, Vô Ngã", lo tu tập chuyển hóa nội tâm, trau dồi đạo đức, kết nối tình thương yêu, lạc quan vui vẽ, thì nguồn an lạc hạnh phúc vẫn luân được tươi mát, thấm đẫm từ tâm ý nơi chính mình và cho cả cuộc đời.
 
"Lại nữa, thế nào là lạc không mắc nợ ? Ở đây nầy gia chủ, vị thiện gia nam tử không mắc nợ ai một điều gì, ít hay nhiều. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ"
 
Thông thường, có người cho rằng: vì nghèo khó nên mới bị mắc nợ, vay trước trả sau, tất bật với bụi đời những sớm chiều sương gió, với tháng ngày đáo hạn, với bao tiền lời phải trả, với sự hối thúc của chủ nợ.v.v... Ta thấy, đôi khi có những ai đó qua hình thức trông như giàu có bảnh bao, nhưng kỳ thật chỉ là lớp che giấu phía sau đó không biết bao nhiêu chuyện lo toan, sầu muộn, đó là những con nợ,
 
Nhưng trong đời, phải đâu chỉ có nợ tiền thôi đâu ! " Không mắc nợ ai một điều gì ít hay nhiều ..." Nó hàm nghĩa cho chúng ta thấy rằng : Không bị nợ về sự lừa dối, gian trá, cướp giựt của người, không ỷ thế hiếp cô, không mưu toan kế sách lợi mình hại người một cách bất chính, không biết tôn trọng những thiện pháp do Đức Phật hay các bậc Thánh ca ngợi, chỉ vì bao lợi dưỡng đời thường, mà tâm hồn thèm khát, tham vọng điên rồ bởi các dục sai xử, mà ta phải bị rơi vào những hạnh nghiệp bất thiện, để rồi chịu bao vay trả cho từng kiếp sống đi qua đầy nhiệt não của trần tâm.
 
Còn hơn thế nữa, ta nợ với cuộc đời biết bao điều hứa hẹn kỳ vọng nơi ta, khi ta có đủ điều kiện và cơ hội. Nhưng thế rồi, mặc cho ngày tháng trôi qua tan tành những điều khả thi, bởi do ta thiếu chân tình với những điều thiện sự, chung qui do vì ta không có sợ hải tội lỗi, ta bị gục ngả với chính ta khi ta đi về mọi phía của cộc đời.
 
Nếu như ngày nào ta còn tà tham, dục tham, đê tiện, ích kỷ, thấp kém.v.v... Thì ngày đó ta phải còn cái nợ với cuộc đời và cả chính ta nữa. Vì lý do đó, mà Đức Phật đã dành cho chúng ta những lời khuyên dạy, cần nên có một nếp sống chân thật, đạo đức, tình thươngban tặng, để được xanh mầm an lạchạnh phúc ngay trong hiện tại, hầu tránh đi chuyện vay trả oán thù và những hạnh nghiệp xấu trong đời.
 
"Lại nữa, nầy gia chủ, thế nào là lạc không phạm tội ? Ở đây nầy gia chủ, vị Thánh đệ tử thành tựu thân hành không phạm tội, thành tựu khẩu hành không phạm tội, thành tựu ý hành không phạm tội. Nghĩ về điều ấy, vị ấy được lạc, được hỷ "
 
 Chúng ta càng nhìn thẳng vào cuộc sống đầy biến động phức tạp như hôm nay, không thể phủ nhận về mặt tiến bộ hiện đại từ nhiều phía, cái đẹp đẽ của muôn sắc màu được giới thiệu đến bao nhiêu, thì cũng không ít bao điều lo ngại, ưu tư đến với gia đìnhxã hội bấy nhiêu, như : nạn bạo hành cướp giựt, trộm cắp, lừa đảo, tội phạm sát hại ngày càng gia tăng, nhân tính, đạo đức, giáo dục hiện nay đến lúc báo động, nhìn ra thế giới bên ngoài đang cháy dần ngòi nổ chiến tranh, sự tranh chấp bờ cõi, biển đảo, nạn khủng bốý thức tôn giáo, nạn kỳ thị chủng tộc và những ý tuởng di biệt… diễn biến không ngừng, những thiên tai siêu bão, bão bùn, lũ lụt tàn phá.v.v...
 
Tất cả đều do con người, chính con người đã làm nên tội lỗi và nghiệt ngã, trong khi ấy, vẫn không ít con người muốn thiết lập duy trì một nếp sống lành mạnh, đạo đức hòa bình để đem lại cho cuộc sống phồn thịnh, hạnh phúc, an lạc. Do đó, ba nghiệp (Thân Khẩu Ý) khéo được tu tập thuần thiện, dễ xử dụng, không phạm tội, có đời sống trong sáng, chân thật, đó là sự biểu hiện bình yên, niềm vui lớn, ích lợi lớn cho mình và cho mọi người.
 
Tóm lại, Đức Phật đến với chúng ta không ngoài những lời dạy thiết thực, ích lợi, giản dị và sâu lắng trong cuộc sống, cho dù bất cứ ở đâu, không gianthời gian nào. Với mục đích lời dạy là đem lại sự an lạc hạnh phúc cho chúng sanh, chư thiênloài người, giúp cho chúng ta nhận biết được sự KHỔ và phương pháp chấm dứt KHỔ. Nếu như có của cảithọ dụng, xử dụng một cách đúng pháp chân chính, biết đủ, từ bỏ mọi dục tham, không để mắc nợ gì, dù ít hay nhiều là điều cần thiết có được an lạchạnh phúc cho người đệ tử Phật. Nhưng quí báu hơn thế nữa chính là có sự chuyển hóa thân tâm được nhu nhuyến, thuần thiện từ thân, lời nóiý nghĩ, không gây tác hại, não hại cho tự thân, gia đình và cho cả xã hội.
 
Hôm nay, chúng ta lại chuẩn bị kết thúc chuỗi thời gian trong năm, bắt đầu chuyển mình bước dần đến ngưõng cửa của năm mới (Quí Tỵ - 2013). Mới đây, nay đã qua thập niên của thế kỷ 21, thế kỷ vươn lên tầm cao của khoa học, kỷ thuật, nhưng cũng là thế kỷ tập trung hướng về nguồn mạch tâm linh siêu vượt ngàn đời bất tận, để trong mỗi chúng ta được thong dong theo dòng sinh lộ đạo đức vi diệu, mà cũng là sự tận hưởng nguồn sinh lực tươi mát của ý vị mùa xuân trong cuộc sống muôn trùng. Để kết thúc bài viết, chúng ta cùng đọc lại lời dạy của Đức Phật :
 
 " Hãy khéo sống chánh hạnh
Chớ sống theo tà hạnh
Người chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời nầy, đời sau." 
(Kinh Pháp Cú. 169.)
 
Long Xuyên, cuối tháng 12.2012.
MẶC PHƯƠNG TỬ.
 
(*) Trích Kinh Bộ Tăng Chi I
      VII- Phẫm Nghiệp Công Đức, 62, 682.
Ý kiến bạn đọc
14 Tháng Bảy 201705:07
Khách
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 145)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 195)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 217)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 284)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 196)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 246)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 306)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 268)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 374)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 607)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 464)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 482)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 574)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 813)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 939)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 715)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 709)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1662)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1353)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1064)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1097)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1534)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant