Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tái Sinh

20 Tháng Sáu 201705:10(Xem: 7518)
Tái Sinh
TÁI SINH

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Nghiệp Đức

Tái Sinh


Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có sự nối kết với Tây Tạng và người Tây Tạng! 

Nhờ vào viễn kiến của những vị vua xa xưa của chúng ta, những vị hiền quan và những thức giả tinh thông, giáo pháp toàn vẹn của Đức Phật, bao gồm những lời dạy từ kinh sách và từ những lời dạy kinh nghiệm của Tam thừa và Bốn phái Mật giáo cũng như những chủ đềphương pháp tu tập liên quan, đã hưng thịnh khắp xứ Tuyết. Tây Tạng đã đáp ứng như một nguồn cung cấp truyền thống Phật giáo và những truyền thống liên quan đến văn hóa cho thế giới. Đặc biệt, xứ sở này đã đóng góp một cách đáng kể cho hạnh phúc của vô số người ở châu Á, bao gồm Trung Quốc, Tây TạngMông Cổ.

Trong quá trình xiển dương truyền thống Phật giáoTây Tạng, chúng ta đã phát triển một truyền thống Tây Tạng độc nhất vô nhịthừa nhận sự tái sinh của những bậc thức giả tinh thông mà họ có sự đóng góp lớn lao cho cả Phật pháp lẫn chúng sanh, đặc biệt đối với cộng đồng Tăng lữ. 

Từ khi ngài Gedun Gyatso thông trí được công nhận và xác chứng là tái sinh của Gedun Drub vào thế kỷ XV và Gaden Phodrang Labrang (Viện Dalai Lama) được thành lập, những sự tái sinh lần lượt được thừa nhận. Người thứ ba trong dòng truyền thừa, Sonam Gyatso, được trao cho danh xưng Dalai Lama. Dalai Lama thứ năm, ngài Ngawang Lobsang Gyatso, đã thành lập Chính phủ Gaden Phodrang vào năm 1642, và nó trở thành đầu não tâm linh và chính trị của Tây Tạng. Hơn 600 năm từ Gedun Drub, một loạt những vị tái sinh chân thực đã được thừa nhận trong dòng truyền thừa Dalai Lama.

Các Dalai Lama đã đóng chức năng vừa là lãnh đạo chính trị vừa là lãnh đạo tâm linh của Tây Tạng trong 369 năm kể từ năm 1642. Tôi bây giờ tình nguyện chấm dứt điều này, tự hào và hài lòng rằng chúng ta có thể theo đuổi loại hệ thống chính quyền dân chủ đang thịnh hành ở những nơi khác trên thế giới. Sự thật, quay trở lại năm 1969, tôi đã nói rõ rằng những người quan tâm nên quyết định xem việc tái sinh của Dalai Lama có nên tiếp tục trong tương lai hay không. Tuy nhiên, bởi sự thiếu vắng những chỉ dẫn rõ ràng, nên công chúng quan tâm thể hiện một mong muốn mạnh mẽ là những Dalai Lama nên tiếp tục, nhưng ở đây rõ ràng có nguy cơ là những kẻ vì quyền lợi chính trị được ban cho sẽ lạm dụng hệ thống tái sinh này để đáp ứng mục đích chính trị của riêng họ. Do đó, trong khi tôi vẫn còn mạnh khỏe về cả phương diện thể chấttinh thần, điều có lẽ quan trọng đối với tôi là chúng ta nên vạch ra những chỉ dẫn rõ ràng để công nhận vị Dalai Lama kế tiếp, để không có chỗ cho sự nghi ngờ và lừa dối. Để những hướng dẫn này được hiểu đầy đủ, điều cốt tủy là chúng ta cần hiểu hệ thống thừa nhận những vị Tulku và những khái niệm cơ bản phía sau nó. Do đó, tôi sẽ giải thích vắn tắt chúng ở bên dưới.

Đời sống quá khứ và tương lai

Để chấp nhận tái sinh hay tính xác thực của những vị Tulku, chúng ta cần chấp nhận rằng có sự hiện hữu của những đời sống quá khứ và tương lai. Chúng sanh đến đời sống này từ những đời sống trước của họ và tái sinh lại sau khi chết. Loại tái sinh tương tục này được chấp nhận bởi tất cả những truyền thống tâm linh Ấn Độ cổ xưa và những trường phái triết học, ngoại trừ những người Charvaka, mà họ là một phong trào theo chủ nghĩa duy vật. Một số nhà tư tưởng hiện đại phủ nhận những đời sống quá khứ và tương lai với lập luận rằng chúng ta không thể thấy chúng. Một số khác không rút ra được những kết luận rõ ràng trên cơ sở này.

Mặc dù nhiều truyền thống tôn giáo chấp nhận tái sinh nhưng họ lại khác nhau trong quan điểm về cái gì tái sinh, cách nó tái sinh, và cách nó trải qua thời kỳ chuyển tiếp giữa hai đời sống. Một số truyền thống tôn giáo chấp nhận viễn cảnh của đời sống tương lai, nhưng bác bỏ quan điểm về những đời sống quá khứ.

Nói chung, các Phật tử tin rằng sự sinh là vô thủy và rằng mỗi khi chúng ta đạt được giải thoát khỏi vòng luân hồi bằng việc vượt thoát nghiệp và những cảm xúc tiêu cực của chúng ta, chúng ta sẽ không còn tái sinh dưới sự ảnh hưởng của những điều kiện này nữa. Do đó, những Phật tử tin rằng có một sự chấm dứt tái sinh như là kết quả của nghiệp và những cảm xúc tiêu cực, nhưng hầu hết những trường phái triết học Phật giáo không chấp nhận rằng dòng tâm thức đi đến chỗ kết thúc. Bác bỏ sự tái sinh quá khứ và tương lai sẽ mâu thuẫn với khái niệm Phật giáo về nền tảng, đạo lộ và kết quả, mà phải được giải thích trên cơ sở của tâm thứctu tập hay không tu tập. Nếu chúng ta chấp nhận luận cứ này, một cách logic, chúng ta cũng sẽ phải chấp nhận rằng thế giới và những cư dân của nó xảy ra mà không có nhân duyên. Do đó, nếu quý vị là Phật tử, cần thiết phải chấp nhận có sự tái sinh trong quá khứvị lai.

Đối với những người nhớ lại được những kiếp quá khứ của họ, tái sinh là một kinh nghiệm rõ ràng. Tuy nhiên, hầu hết những người bình thường đều quên những kiếp quá khứ của họ khi họ trải qua tiến trình chết, trạng thái trung giantái sinh. Vì sự tái sinh trong quá khứ và tương lai phần nào khó hiểu đối với họ nên chúng ta cần sử dụng luận lý học dựa trên bằng chứng để chứng minh sự tái sinh trong quá khứ và tương lai cho họ.

Có nhiều luận cứ hợp lý khác nhau được đưa ra trong những lời dạy của Đức Phật và những luận giải để chứng minh sự hiện hữu của những đời sống quá khứ và tương lai. Vắn gọn, chúng bao gồm bốn điểm: luận lý cho rằng các sự vật được dẫn trước bởi những sự vật thuộc loại tương tự, luận lý rằng những sự vật được dẫn trước bởi một nguyên nhân căn bản, luận lý rằng tâm đã quen thuộc với những sự vật trong quá khứ, và luận lý về việc có được kinh nghiệm sự vật trong quá khứ.

Cuối cùng thì tất cả những luận cứ này được đặt cơ sở trên quan điểm rằng bản chất của tâm, sự sáng tỏtỉnh thức của nó, phải có sự sáng tỏtỉnh thức như là nguyên nhân cơ bản của nó. Nó không thể có bất kỳ thực thể nào khác chẳng hạn như một đối tượng vô tri giác nhưnguyên nhân cơ bản của nó. Điều này là hiển nhiên. Thông qua phân tích logic chúng ta suy ra rằng một dòng mới của sự sáng tỏtỉnh thức không thể phát ra mà không có những nguyên nhân hay từ những nguyên nhân không liên quan. Trong khi chúng ta quán sát rằng tâm không thể được sinh ra trong một phòng thí nghiệm, chúng ta cũng suy ra rằng không điều gì có thể loại trừ tính tương tục của sự sáng tỏtỉnh thức vi tế.

Theo như tôi biết, không nhà tâm lý, vật lý, hay khoa học thần kinh hiện đại nào có thể quán sát hay tiên đoán được sản phẩm của tâm là từ vật chất hay từ khôngnguyên nhân.

Có những người có thể nhớ lại đời sống quá khứ gần nhất của họ hay thậm chí nhiều kiếp sống quá khứ, cũng như có thể nhận ra những nơi chốn và người thân từ những kiếp sống đó. Đây không chỉ là điều xảy ra trong quá khứ. Ngay cả ngày nay có nhiều người ở phương Đông và phương Tây, có thể nhớ lại những tình tiết và kinh nghiệm từ những kiếp trước của họ. Phủ nhận điều này không phải là một cách thành thậtcông bằng trong việc làm nghiên cứu, bởi vì nó đi ngược lại chứng cứ này. Hệ thống công nhận tái sinh của Tây Tạng là một mô thức nghiên cứu chân thật được đặt cơ sở trên việc nhớ lại của người ta về những kiếp trước của họ.

Tái sinh xảy ra như thế nào

Có hai cách mà ở đó người ta có thể tái sinh sau khi chết: tái sinh dưới sự tác động của nghiệp và những cảm xúc tiêu cựctái sinh ngang qua năng lực từ bithệ nguyện. Về cái đầu, do vì vô minh, nghiệp tích cựctiêu cực được tạo tác và những dấu vết của chúng lưu giữ trong thức. Những thứ này được kích hoạt lại thông qua tham áichấp thủ, xô đẩy ta vào đời sống kế tiếp. Chúng ta theo đó tái sinh không chủ tâm vào những cảnh giới thấp hoặc cao. Đây là cách những chúng sanh thông thường trôi lăn không ngừng ngang qua sự hiện hữu giống như sự xoay của một bánh xe. Cho dù ở trong những tình cảnh như vậy, người thông thường vẫn có thể tinh tấn dấn thân với một khát vọng tích cực hành thiện trong đời sống hàng ngày của họ. Họ tự làm quen với đức hạnh mà vào lúc chết nó có thể đem lại phương tiện cho họ có sự tái sinh vào cảnh giới hiện hữu cao hơn. Trong khi đó, những bậc Bồ-tát, những người đã đạt đạo, không còn tái sinh qua hành nghiệp và những cảm xúc tiêu cực của họ, mà do sức mạnh của từ bi đối với chúng sanh và được đặt cơ sở trên thệ nguyện làm lợi ích kẻ khác của họ. Họ có thể chọn nơi chốn và thời gian tái sinh cũng như cha mẹ tương lai của họ. Một sự tái sinh như vậy, mà nó cốt yếu vì lợi ích của kẻ khác, là tái sinh bằng năng lực từ bithệ nguyện.

Ý nghĩa của Tulku

Có vẻ như phong tục của người Tây Tạng trong việc áp dụng biệt danh “Tulku” (Hóa thân Phật) để công nhận những sự tái sinh bắt đầu khi những tín đồ sử dụng nó như một danh hiệu cao quý, nhưng rồi nó đã trở thành một sự diễn đạt chung. Nói chung, thuật ngữ Tulku đề cập đến một phương diện đặc biệt của Đức Phật, một trong ba hay bốn thân (phương diện) được mô tả trong Sūtrayāna (Hiển thừa). Theo sự giải thích về những phương diện này của Đức Phật, một người mà họ hoàn toàn bị trói buộc bởi nghiệp và những cảm xúc tiêu cực vẫn có khả năng đạt được Pháp thân (Dharmakaya), bao gồm Pháp thân trí tuệ và Pháp thân bản tánh. Pháp thân trí tuệ đề cập đến tâm giác ngộ của một vị Phật, tâm nhìn thấy mọi vật một cách trực tiếp và chính xác như nó là, ngay lập tức. Nó đã loại sạch những cảm xúc tiêu cực, cũng như những dấu vết của nó, thông qua việc tích lũy phước đứctrí tuệ qua một thời gian dài. Pháp thân bản tánh, đề cập đến bản chất trống không của tâm giác ngộ biết rõ mọi thứ đó. Hai điều này cùng cấu thành nên những khía cạnh của chư Phật. Tuy nhiên, do vì những thân này không tiếp cận trực tiếp được với người khác, mà chỉ trong các vị Phật với nhau, nên bắt buộc chư Phật phải hóa hiện trong những hình hài vật lý để có thể dễ dàng tiếp cận chúng sanh để giúp đỡ họ. Do đó, phương diện vật lý cuối cùng của một vị Phật là Tha thụ dụng thân (Sambhogakaya), mà nó có thể tiếp cận với các đại Bồ-tát, và có năm phẩm chất định rõ, chẳng hạn như cư trú ở cõi trời Sắc cứu cánh (Akanishta). Và từ Tha thụ dụng thânhóa hiện ra vô số Ứng hóa thân (Nirmanakaya) hay Tulku của chư Phật, mà nó xuất hiện như chư thiên hay con người và có thể tiếp xúc được với cả những người bình thường. Hai phương diện vật lý này của Đức Phật được gọi là Sắc thân (Rupa-kaya).

Hóa thân gồm có ba bậc: a) Hóa thân tối thượng giống như Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật lịch sử, người thể hiện mười hai việc làm của một vị Phật chẳng hạn như sanh vào nơi mà Ngài chọn v.v…; b) Hóa thân nghệ nhân, là phụng sự người khác bằng cách xuất hiện làm thợ thủ công, nghệ sĩ và v.v…; và c) Hóa hiện thân, theo đó chư Phật xuất hiện trong nhiều hình thức khác nhau chẳng hạn như con người, thần linh, dòng sông, cây cầu, thảo dược, cây cối để giúp đỡ chúng sanh. Trong ba dạng hóa sanh này, hóa sanh của những vị thầy tâm linh được công nhận và được gọi là ‘Tulku’ ở Tây Tạng được xếp vào phạm trù thứ ba. Trong số những vị Tulku này có thể có nhiều người thật sự đủ tiêu chuẩn Ứng hóa thân của chư Phật, nhưng điều này không tất yếu áp dụng cho tất cả họ. Trong số những vị Tulku của Tây Tạng có thể có những người là hóa thân của những đại Bồ-tát, những Bồ-tát trên con đường tích tập và chuẩn bị tư lương, cũng như những đạo sư mà họ rõ ràng chưa bước vào con đường Bồ-tát này. Do đó, tên gọi Tulku được trao cho nhưng vị Lama tái sinh hoặc dựa trên những nền tảng tương đồng với những vị giác ngộ, hay thông qua sự nối kết của họ với một số những phẩm chất nào đó của những bậc giác ngộ.

Như Jamyang Khyentse Wangpo nói:

“Hóa sanh là những gì xảy ra khi người nào đó tái sinh sau sự qua đời của người tiền kiếp; hóa thân là khi những hóa hiện xảy ra mà không có sự chết đi của người hóa thân”.

Thừa nhận tái sinh

Thông lệ công nhận “ai là ai” bằng việc nhận dạng tiền kiếp của họ xảy ra ngay cả khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Nhiều tài liệu được tìm thấy trong luật Tứ phần, những câu chuyện Tiền thân (Jataka), kinh Hiền ngu (Damamūka-nidāna), kinh Bách nghiệp (Karma Shataka sutra) v.v.., mà ở đó Như Lai khai mở cho thấy sự vận hành của nghiệp, kể lại vô số câu chuyện về cách những ảnh hưởng của một số nghiệp được tạo tác trong một kiếp quá khứ được nếm trải bởi một người trong hiện kiếp của vị ấy như thế nào. Ngoài ra, trong những câu chuyện về những đạo sư Ấn Độ, những vị sống sau thời Đức Phật, nhiều người cho biết những nơi sanh trước đây của họ. Có nhiều câu chuyện như vậy, nhưng hệ thống công nhận và thống kê sự tái sinh của họ không xảy ra ở Ấn Độ.

Hệ thống công nhận tái sinhTây Tạng

Những đời sống quá khứ và tương lai được xác nhận trong truyền thống đạo Bon bản địa của Tây Tạng trước khi Phật giáo du nhập. Và từ việc truyền bá Phật giáoTây Tạng, hầu hết người Tây Tạng đã tin vào đời sống quá khứ và tương lai. Nghiên cứu sự tái sinh của nhiều vị đạotâm linh xiển dương giáo pháp, cũng như tập tục cầu nguyện chí thành các vị ấy, đã thịnh hành bất kỳ nơi đâu ở Tây Tạng. Nhiều kinh sách chân thực, những quyển sách bản địa Tây Tạng chẳng hạn như Mani Kabum, Fivefold Kathang Teachings và những quyển sách khác như The Books of Kadam Disciples và Jewel Garland: Responses to Queries, mà chúng được thuật lại chi tiết bởi vị đạoẤn Độ xuất chúng Dipankara Atisha vào thế kỷ XI ở Tây Tạng, kể về những câu chuyện tái sinh của Đức Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), vị Bồ-tát của lòng từ bi.

Tuy nhiên, truyền thống hiện tại chính thức thừa nhận tái sinh của những vị đạo sư bắt đầu lần đầu vào đầu thế kỷ XIII với việc công nhận Karmapa Pagshi là tái sinh của Karmapa Dusum Khyenpa bởi những đệ tử của ngài phù hợp với tiên báo của ngài. Kể từ đó, có 17 hóa thân Karmapa qua hơn chín trăm năm. Tương tự, từ khi việc thừa nhận Kunga Sangmo như là tái sinh của Khandro Choekyi Dronme vào thế kỷ XV, đã có hơn mười hóa thân của Samding Dorje Phagmo. Vì vậy, trong số những vị Tulku được thừa nhậnTây Tạng, có những tu sĩ và những hành giả Mật giáo nam nữ cư sĩ. Hệ thống công nhận tái sinh dần truyền sang những truyền thống Phật giáo Tây Tạng khác, cả truyền thống Bon, ở Tây Tạng. Ngày nay, có những vị Tulku được công nhận ở tất cả những truyền thống Phật giáo Tây Tạng: Sakya, Geluk, Kagyu và Nyingma, cũng như Jonang và Bodong, những người phụng sự Phật pháp. Hiển nhiên trong số những vị Tulku này có một số đáng hổ thẹn.

Ngài Gedun Drub, một đệ tử trực tiếp của Je Tsongkhapa, đã thành lập tu viện Tashi Lhunpo ở Tsang và dạy dỗ những môn đệ của mình. Ngài thị tịch vào năm 1474 ở tuổi 84. Mặc dù ban đầu không có những nỗ lực được thực hiện để nhận diện hóa thân của ngài, nhưng người ta buộc phải công nhận một cậu bé có tên là Sangye Chophel, sinh ra ở Tanak, Tsang (1476), do vì những gì cậu bé đã nói về những hồi ức đầy đủ và gây ngạc nhiên của mình ở kiếp sống trước. Kể từ đó, truyền thống tìm kiếmcông nhận những tái sinh kế tục của các Dalai Lama được Gaden Phodrang Labrang và sau đó là Chính phủ Gaden Phodrang thực hiện.

Những cách thức công nhận tái sinh

Sau khi hệ thống công nhận các vị Tulku có mặt, nhiều thủ tục khác nhau để thực hiện nó bắt đầu hình thành và phát triển. Trong số này điều quan trọng nhất là liên quan đến lá thư tiên báo của người tiền kiếp và những chỉ dẫn và dấu hiệu khác mà chúng có thể xảy ra; sự hồi tưởng đáng tin cậy về kiếp sống trước và nói về nó của người tái sinh; nhận diện những vật sở hữu thuộc về vị tiền kiếpnhận ra những người từng thân cận với mình. Ngoài những điều này, những phương pháp bổ sung bao gồm thỉnh vấn những vị thầy tâm linh khả tín về tiên đoán của họ cũng như tìm những lời tiên đoán từ những nhà tiên tri thế tục, mà họ thể hiện qua phương tiện thôi miên, và quán sát những hình ảnh hiện ra nơi những hồ thiêng của những vị hộ pháp chẳng hạn như hồ Lhamoi Latso, một hồ thiêng ở Nam Lhasa.

Khi ở đó xảy ra nhiều hơn một ứng viên tương lai cho việc công nhận là một vị Tulku, và bắt đầu khó khăn để quyết định, thì có một thực hành đưa ra quyết định cuối cùng bằng tiên đoán là sử dụng phương pháp cục bột nhồi (zen tak) trước một bức ảnh thiêng liêng trong khi cầu khẩn năng lực của sự thật.

Hóa thân trước cái chết của vị tiền thân (ma-dhey tulku)

Thường một sự tái sinh phải là sự thọ nhận tái sinh làm một con người của một ai đó sau cái chết của vị tiền kiếp. Những chúng sanh bình thường nói chung không thể hóa hiện một sự hóa thân trước cái chết (ma-dhey tulku), nhưng những vị Bồ-tát cao siêu, người có thể hóa hiện trong hàng trăm hay hàng ngàn thân cùng lúc, có thể hóa hiện một hóa thân trước cái chết. Bên trong hệ thống công nhận những vị Tulku của Tây Tạng, có những vị hóa thân mà họ thuộc về cùng một dòng tâm với người tiền kiếp, những vị hóa thân mà họ được nối kết với người khác ngang qua năng lực của nghiệp và cầu nguyện, và những vị hóa thân mà họ có mặt như là kết quả của phước đức và việc bổ xứ.

Mục đích chính của việc xuất hiện một vị tái sinh là để tiếp tục công việc phụng sự Phật phápchúng sanh chưa hoàn mãn của vị tiền kiếp. Trong trường hợp một Lama là một người bình thường, thay vì có một sự tái sinh thuộc về cùng dòng tâm, một số người khác với những nối kết với vị Lama đó thông qua tịnh nghiệpcầu nguyện có thể được công nhận như hóa thân của vị ấy. Cách khác, vị Lama có bổ nhiệm một người kế vị mà người đó hoặc là đệ tử của mình hoặc một người trẻ nào đó mà họ phải được thừa nhận như là hóa thân của mình. Bởi những lựa chọn là có thể trong trường hợp của một người bình thường, một sự hóa sanh trước khi chết mà nó không cùng dòng tâm thức vẫn có thể thực hiện được. Trong một số trường hợp, một vị Lama cao cấp có thể có nhiều tái sinh cùng lúc, chẳng hạn như tái sinh của thân, khẩu và ý v.v… Trong thời gian gần đây, có những hóa thân nổi tiếng trước cái chết chẳng hạn như  Dudjom Jigdral Yeshe Dorje và Chogye Trichen Ngawang Khyenrab.

Sử dụng Chiếc bình vàng

Khi thời đại suy đồi trở nên tồi tệ hơn, và khi có nhiều sự tái sinh của những Lama cao cấp được thừa nhận, một số trong họ vì những động cơ chính trị, làm gia tăng con số được thừa nhận thông qua những cách thức không thích hợpđáng ngờ, kết quả là gây tổn hại lớn lao cho Phật pháp.

Trong suốt cuộc xung đột giữa Tây Tạng và người Gurkha (1791-1793), chính quyền Tây Tạng phải cầu viện sự ủng hộ quân sự của Mãn Thân. Do vậy quân đội Gurkha bị đánh đuổi ra khỏi Tây Tạng, nhưng sau đó những quan chức Mãn Thanh đặt ra một đề xuất 29 điểm viện cớ là làm cho việc điều hành của chính phủ Tây Tạng hiệu quả hơn. Đề xuất này bao gồm việc đề xuất bóc thăm từ một Chiếc bình vàng để quyết định việc thừa nhận tái sinh của các vị Dalai Lama, Panchen Lama và Hutuktu - một danh hiệu mà người Mông Cổ trao cho những vị Lama cao cấp. Do đó, thủ tục này được thực hiện trong trường hợp công nhận một số tái sinh của Dalai Lama, Panchen Lama và những Lama cao cấp khác. Nghi lễ thực hiện được viết bởi Dalai Lama thứ tám là Jampel Gyatso. Ngay cả sau khi một hệ thống như vậy được đưa ra, thủ tục này bị bỏ qua với vị thứ chín, thứ mười ba và bản thân tôi, Dalai Lama thứ 14.

Ngay trong trường hợp của Dalai Lama thứ mười, sự tái sinh chân thực đã được tìm thấy rồi và trong thực tế thủ tục này không được tuân thủ, nhưng để chiều lòng Mãn Thanh người ta thông báo rằng thủ tục này đã được tiến hành.

Hệ thống Chiếc bình vàng thực sự chỉ được sử dụng trong trường hợp của Dalai Lama thứ 11 và thứ 12. Tuy nhiên, Dalai Lama thứ 12 đã được công nhận trước khi thủ tục này được sử dụng. Do đó, chỉ có một trường hợp khi một vị Dalai Lama được công nhận bằng việc sử dụng cách thức này thôi. Tương tự như vậy, trong số những tái sinh của Ban-thiền Lama, ngoại trừ vị thứ tám và thứ chín, không có trường hợp nào sử dụng phương cách này. Hệ thống này bị áp đặt bởi người Mãn Thanh, còn người Tây Tạng thì không có niềm tin vào nó bởi vì nó thiếu mọi phẩm tính tâm linh. Tuy nhiên, nếu nó được sử dụng một cách trung thực, dường như rằng chúng ta có thể xem nó tương tự với hình thức tiên tri bằng việc sử dụng phương pháp cục bột nhồi (zen tak).

Vào năm 1880, trong khi công nhận Dalai Lama thứ 13 như là tái sinh của vị thứ 12, những dấu hiệu của mối liên hệ Tu sĩ - Nhà bảo trợ giữa Tây Tạng và Mãn Thanh vẫn tồn tại. Ngài được Panchen Lama thứ tám công nhậntái sinh chân thực, và bằng những tiên đoán của nhà tiên tri Nechung và Samye cũng như bằng việc quán sát hình ảnh xuất hiện ở hồ Lhamoi Latso, do đó thủ tục Chiếc bình vàng không được tuân thủ. Điều này có thể hiểu rõ từ di chúc cuối cùng của Dalai Lama thứ 13 về năm con Khỉ Nước (1933) mà ở đó ngài nói:

“Như tất cả quý vị biết, tôi được lựa chọn không theo tập tục bóc xăm từ Chiếc bình vàng, mà sự lựa chọn của tôi được tiên đoán và báo trước. Phù hợp với những lời tiên tri và dự báo này mà tôi được công nhận tái sinh của Dalai Lama và được đăng quang”.

Khi tôi được công nhậntái sinh thứ 14 của Dalai Lama vào năm 1939, mối liên hệ giữa Tu sĩ - Nhà bảo trợ giữa Tây TạngTrung Quốc đã chấm dứt. Do đó, không còn vấn đề về bất kỳ nhu cầu nào để xác nhận tái sinh bằng việc sử dụng Chiếc bình vàng. Ai cũng biết rõ rằng Hội đồng Tây Tạng và Quốc hội Tây Tạng đã tuân theo thủ tục công nhận tái sinh của Dalai Lama bằng việc tính đến những tiên đoán của những vị Lama cao cấp, những sấm truyền và những hình ảnh được nhìn thấy ở hồ Lhamoi Latso…

Dalai Lama - Nghiệp Đức dịch
(Nguồn: dalailama.com)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8945)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26093)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13784)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27937)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19835)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7753)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7604)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7459)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8021)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9726)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22698)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16908)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8534)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10383)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10552)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11248)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9881)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10544)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12683)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8789)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19845)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20804)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21348)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13414)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10550)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9524)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26743)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10732)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12103)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30867)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14111)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11129)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11083)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11229)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11619)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12713)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24019)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14903)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11621)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20237)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10602)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10370)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12240)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11481)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14277)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11932)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24595)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12328)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22248)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12544)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12711)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12614)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16803)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13728)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13026)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13479)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12558)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14456)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38421)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14626)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant