Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

21 Tháng Sáu 201705:03(Xem: 7442)
Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Nguyệt Xứng
ÁI DỤC VÀ CÁC PHIỀN NÃO KHÁC
(Giải thích Trung Luận - chương VI)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Bản Anh: Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the PRASANNAPADA of Candrakirti, translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murtiand U.S. Vyas. Routledge 1979 -- pp. 109-114 (Nguyệt Xứng. Hiển bày Trung Đạo. Giải thích Trung Luận của Long Thọ / Minh cú luận)

     Có các cá nhân chủ trương các uẩn, các xứ, và các giới (đất, nước, gió, lửa, hư không và thức) hiện hữu trong thực tế (exist in fact). Trên các nền tảng gì? Do vì sự tri nhận trực tiếp về trạng thái phiền não (samklesa) nó được đặt căn cứ trên uẩn, xứ, giới. Lí luận ở đây là, không thể nào có tri nhận trực tiếp của một trạng thái phiền não được đặt căn cứ trên một cái gì mà nó không hiện hữu, như, chẳng hạn không có tri nhận của con trai một người đàn bà không thể sinh con (thạch nữ) về con gái của một người đàn bà không thể sinh con.  Do thế ái dục (Skt. raga; desire) và các phiền não khác (klesa; afflictions) hiện hữu bởi vì chúng là các căn cứ cần thiết  của trạng thái phiền não.

        Đây là điều Đức Thế Tôn đã nói, “ Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà chúng hứa hẹn hạnh phúc. Từ sự trung thành như thế ái dục được sinh ra; bị ái dục chụp bắt, kẻ này  thực hiện – trong hành động, tư tưởngngôn ngữ – các hành nghiệp được sinh từ ba phiền não, ái dục, sân hậnngu si (raga, dvesa, moha) ...”

           + Nếu giả thiết ái dục hiện hữu cần phải giả thiết tiên quyết kẻ khởi ái dục hiện hữu (Desire presupposes one desiring)

          Trong phần phúc đáp, chúng tôi nói rằng các uẩn, các xứ, và các giới sẽ hiện hữu nếu ái dục và các phiền não khác hiện hữu. Lí luận ở đây sẽ, một là, ái dục, được tri nhận là thực bởi những kẻ thường tục, không có kiến thức tinh tế, sẽ tiên quyết giả thiết (presuppose) một cá nhân hiện hữu mà kẻ này khởi ái dục và, hai là, (sẽ xem xét) kẻ đó  hiện hữu hoặc không hiện hữu. Ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa – hiện hữu, không hiện hữu – đều không hợp lí.

VI. 1 Nếu kẻ khởi ái dục giả sử hiện hữu trước khi có ái dục của kẻ đó, đó là, hoàn toàn cách biệt với ái dục, như vậy ái dục sẽ tùy thuộc vào kẻ khởi ái dục; như vậy nếu có kẻ khởi ái dục thì sẽ có ái dục

          Ở đây “ái dục” bao gồm ái luyến, sự nỗ lực của ái dục, sự tham lợi và sự hết lòng tận tụy.  Ái dục có căn cứ của nó trong kẻ khởi ái dục (rakta). Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu từ trước đối với ái dục của kẻ đó, nghĩa là hoàn toàn cách biệt  với nó, kẻ đó sẽ chẳng có ái dục (rahita); trong trường hợp như thế ái dục sẽ được đặt căn cứ  trên một kẻ khởi ái dục mà kẻ đó cách biệt hoàn toàn với ái dục.  Trong cách nói này, khi nói rằng ái dục có thể sinh khởi trong một cá nhân đang hiện hữu khi mà kẻ ấy ái dục, là điều có lí. Nhưng điều này là bất khả hữu – một cá nhân khởi ái dục mà chẳng có ái dục – và nó sẽ tất nhiên dẫn đến kết quả rằng ngay cả những kẻ trí tuệ có thể có những ái dục.

          Nếu, trong cách nói này, không thể có ái dục trong một kẻ khởi ái dục khi mà kẻ đó hiện hữu, vậy thì hãy xem nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu – nghĩa là không có kẻ đó trước khi có hành động ái dục. Nhưng điều này cũng không hợp lí, ngài Long Thọ nói:

VI. 2ab Nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu, ái dục sẽ sinh khởi cách nào?

          Bởi vì không thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu, làm thế nào có thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu?  Một ái dục, mà nó chẳng có một sở y/cơ sở nương tựa/basis, sẽ là một hiện hữu được thừa nhận – conceded existence – hay sao ? Bởi vì một quả mà nó không hiện hữu không thể có khả hữu trở thành chín.

          + Nếu giả thiết kẻ khởi ái dục hiện hữu, cần phải giả thiết tiên quyết ái dục hiện hữu ( One desiring presupposes desire).

          Một cá nhân có thể phát biểu xen vào: “Ngay dù bạn luận bác ái dục tuy thế kẻ khởi ái dục hiện hữu vì kẻ này không bị luận bác; nhưng kẻ khởi ái dục thì vô nghĩa lí khi chẳng có ái dục; thế nên ái dục cũng hiện hữu.” Phúc đáp của chúng tôi tới kháng biện đó (our rejoinder) là ái dục đó sẽ hiện hữu nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu. Đó là, nếu bạn tuyên bố một cá nhân là kẻ khởi ái dục vậy thì bạn phải giả thiết hoặc là ái dục hiện hữu hoặc là không hiện hữu. Nhưng ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa đó đều là do chẳng có khả năng thông hiểu (But Nagarjuna says that neither alternative is intelligible).

VI. 2cd Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu thì hệ quả như nhau dù cho ái dục hiện hữu hoặc không hiện hữu.

          Nếu bạn tuyên bố kẻ khởi ái dục trên giả thiết về ái dục hiện hữu, nó sẽ đưa đến kết quả là trong trường hợp này bạn xem ái dục hiện hữu cũng là do bạn chẳng có khả năng thông hiểu, tương tự như biện luận mới đây về kẻ khởi ái dục được giả thiếthiện hữu. “Nếu ái dục hiện hữu từ trước đối với kẻ khởi ái dục, đó là, hoàn toàn cách biệt với bất kì kẻ khởi ái dục ...” và v.v... Hoặc bạn có thể xem xét kẻ khởi ái dục trên giả thiết ái dục không hiện hữu. Nhưng điều này không hợp lí. Bởi vì “Nếu ái dục không hiện hữu, làm thế nào có thể có kẻ khởi ái dục? ” (VI. 2ab) – Nó đưa đến kết quả là kẻ khởi ái dục không hiện hữu. Bởi thế ái dục và kẻ khởi ái dục cũng chẳng hiện hữu, các uẩn, xứ, giới cũng chẳng hiện hữu.

(Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên. Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming. ĐHP)

          + Đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục -- (Simultaneity or conjunction of desire and the one desiring)

          Một cá nhân có thể nói xen vào rằng ái dục và kẻ khởi ái dục không sinh khởi cái này sau cái kia / chờ đợi đối đãi như các chỉ trích của chúng tôi giả thiết. Nói đúng hơn, ái dục và kẻ khởi ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành (Skt. sahaiva). Nó là do bởi một ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành với một trạng thái của tâm có tính ái dục, và đó là “kẻ khởi ái dục” (“one desiring”). Do thế cả hai ái dục và kẻ khởi ái dục đều hiện hữu trong thực tế. Ngài Long Thọ cũng phúc đáp ở đây:

VI. 3ab Sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục là không hợp lí;

          Đó là sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục thì không hợp lí, bởi vì,

VI. 3cd  bởi vì ái dục và kẻ khởi ái dục sẽ sinh khởi một cách độc lập với nhau.

          Bởi vì trạng thái đồng thời hợp thành của chúng, tương tự như các sừng phải và trái của một con bò, là ý nghĩa này.

          Bởi vì điều đó (now: because of that) đồng thời hợp thành của hai cái này, ái dục và kẻ khởi ái dục, sẽ phải được nhận thức hoặc là nương tựa vào sự đồng nhất của chúng (ekatva) hoặc vào sự dị biệt của chúng (prthaktva). Bởi vì

VI. 4a Không thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất của ái dục và kẻ khởi ái dục;

          Ngài Long Thọ giải thích lí do tại sao, đó là:

VI. 4b Không thể có sự đồng thời hợp thành của một sự vật với chính nó.

          Tự tính của một ái dục, mà nó không thể bị phân biệt với ái dục, không thể bị xem là đồng thời hợp thành với ái dục.

          Quan liên trường hợp thứ nhì, ngài Long Thọ nói không có sự đồng thời hợp thành của cái gì dị biệt.

VI. 4cd Thêm nữa, làm cách nào có thể sự đồng thời hợp thành của cái gì hoàn toàn dị biệt?

          Thực ra  bạn chẳng bao giờ quan sát sự đồng thời hợp thành của các sự vật mà mỗi cái của chúng hiện hữu dị biệt như ánh sáng và bóng tối, hoặc luân hồiniết bàn.

VI. 5  Nếu có thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất (tỉ dụ, ái dục, kẻ khởi ái dục), vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay cả khi không có thành phần thứ hai; nếu có thể có sự đồng thời hợp thành đặt căn cứ trên hiện hữu dị biệt thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay dù không có thành phần thứ hai.

          Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất, vậy thì bạn có thể nói “bất kì ở đâu khi có sự đồng nhất thì có sự đồng thời hợp thành” và vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành của ngay cả một trong hai thành phần. Thêm nữa , nếu sự đồng thời hợp thành được xem là  dựa trên nguyên lí “bất kì ở đâu khi có sự dị biệt là có sự đồng thời hợp thành”, vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành trong một thành phần mà nó được định nghĩa là dị biệt với cái khác, tỉ như một con bò thì dị biệt với một con ngựa và các con vật khác. Nói thêm nữa,

+ Tính hỗ tương đối đãi của sự đồng thời hợp thành và sự dị biệt (Reciprocality of simultaneity or conjunction and separateness or difference)

VI. 6 Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự dị biệt, sự dị biệt của một ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập theo cách nào, trên căn cứ của cái mà chúng sẽ đồng thời hợp thành?

          Sự đồng thời hợp thành của một ái dục và của kẻ khởi ái dục thì được tưởng tượng nương tựa vào sự dị biệt của chúng. Làm cách nào sự hiện hữu dị biệt của chúng sẽ được thành lập (siddhi)? Làm cách nào kẻ khởi ái dục có thể được thành lập không tùy thuộc vào ái dục để có thể có sự đồng thời hợp thành của cả hai? Mặc dù thế, sự đồng thời hợp thành của con bò và con ngựa, mà nó được thành lập do sự dị biệt, là một vấn đề về quan sát trực tiếp. Nhưng ái dục và kẻ khởi ái dục không được thành lập trong cách này; do thế không có sự đồng thời hợp thành của cặp đôi này.

          Thêm nữa, trên phương diện khác có một điều sáng tỏ là không có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật được thành lập trong vai trò hai cái dị biệt.

VI. 7ab  Thêm nữa, nếu sự dị biệt hoàn toàn của ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập,

          Nếu đối phương giả thiết điều này, do vậy, ngài Long Thọ hỏi, về điều được giả thiết này, có phải đồng thời hợp thành không còn hiệu lực nữa?

VI. 7cd  Mục đích của sự đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục mà ông giả thiết là gì?

          Sự đồng thời hợp thành được hiểu là có mục đích thành lập ái dục và kẻ khởi ái dục. Nhưng không thể nào có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật nếu mỗi sự vật không được thành lập trong vai trò cái dị biệt, và đối phương đang đinh ninh (assuming) rằng mỗi cái đều được thành lập trong vai trò cái dị biệt. Nhưng nếu sự này là như thế, vậy cái gì sẽ đạt được bằng cách thành lập sự đồng thời hợp thành? Đó là,

VI. 8ab Ông giả thiết sự đồng thời hợp thành ngay dù sự hiện hữu dị biệt không được thành lập.

          Ái dục và kẻ khởi ái dục hiển nhiên là không thể được thành lập theo cách chúng vẫn là dị biệt nếu ông xem xét một mình sự đồng thời hợp thành của chúng. Và không thể nào có sự đồng thời hợp thành nếu hai cái này không được thành lập một cách dị biệt.

VI. 8cd  Và dù vậy để làm tốt sự thành lập đồng thời hợp thành ông chấp thuận sự dị biệt.  

          Như vậy luận chứng của đối phương rõ ràng được thành lập trên sự quan liên hỗ tương, cái nào trong hai cái – sự dị biệt, sự đồng thời hợp thành --  là căn cứ của luận chứng và cái nào là cái được chứng nhận? Đó là nói,

VI.9  Nếu sự dị biệt không hiện hữu, sự đồng thời hợp thành không thể thành lập nó; nhưng nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?

          Sự dị biệt không thể hiện hữu như thế và không quan liên tới sự đồng thời hợp thành, mà trong nó sự đồng thời hợp thành có thể được thành lập. Ngài Long Thọ nói nó là bất khả hữu: “nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?”. Do vậy, ngài Long Thọ nói, kết luận bản phân tích đã thực hiện, xác định rằng ái dục và kẻ ái dục không được thành lập,

VI. 10ab  Do vậy ái dục không thể được thành lập trong sự đồng thời hợp thành với kẻ khởi ái dục hoặc một cách độc lập với kẻ khởi ái dục.

          Chính vì ái dục và kẻ khởi ái dục không thể được thành lập hoặc cái này sau cái kia/ chờ đợi đối đãi hoặc một cách đồng thời, do thế, mở rộng kết luận này tới tất cả các sự vật, ngài Long Thọ nói

VI. 10cd  Cũng như trong trường hợp của ái dục, không một pháp nào trong các pháp có thể được thành lập như là đồng thời hợp thành hoặc như là chẳng đồng thời hợp thành.

          Đó là, bạn tiến hành, như với ái dục và kẻ khởi ái dục, để hiển thị sự phi hiện hữu của sân hận và kẻ sân hận, ngu si và kẻ ngu si và v.v...đối với các phiền não khác.

          Vì những lí do này Đức Thế Tôn đã nói rất sáng tỏ, giản dị “Có sự vật mà nó sẽ là ái dục, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của ái dục; có sự vật mà nó sẽ là sân hận, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của sân hận; có sự vật mà nó sẽ là sự ngu si, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối  tượng của ngu si; bạn chẳng hề chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp cũng chẳng hề tri nhận trong bất kì cách nào xem một pháp là như thế. Bạn kẻ chẳng chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp hoặc chẳng tri nhận nó trong bất kì một cách nào là một pháp như thế thì bạn được nói là kẻ chẳng có ái dục, chẳng có sân hận, chẳng có ngu si, có một cái tâm hoàn toàn chẳng có tin tưởng sai bậy/ vọng kiến: là một kẻ thực chứng --  realized man. Kẻ này được nói là đã qua tới bờ kia; đã đạt tịch tĩnh...đã chẳng còn tạo các ảnh hưởng tác hại. Kẻ này được nói là hoàn toàn chẳng có các phiền não, ông chủ của chính mình, kẻ mà tư duy mỗi ngày đều là giải thoát toàn hảo và trí tuệ phân tích của kẻ này là giải thoát toàn hảo; kẻ có các nguồn gốc cao quý, một con rắn  uy lực, kẻ đã làm cái gì theo chương trình sẽ làm, kẻ đã làm cái gì phải làm, kẻ đã làm xong  gánh nặng, đã hoàn thành bổn phận của mình, kẻ đã thành tựu sự diệt tận các khát vọng đối với hiện hữu, kẻ mà tâm được giải thoát toàn hảo do tu tập chân chính, kẻ đã đạt sự  làm chủ hoàn toàn trên tất cả tâm niệm. Kẻ như thế được gọi là sa môn – sramana” Chánh Định Vương Kinh –Samadhiraja Sutra.Và v.v...

          Và kế tiếpkệ tụng này:

“ Những kẻ lí hội thông hiểu rằng bản chất của ái dục, sân hận, các say đắmngu si nhảy vọt từ một ý chí bị sinh ra bởi sự sai trật –falsity, (thế nên) họ từ bỏ những những tưởng tượng mơ hồ vô ích; đối với những kẻ như thế thì chẳng có cái gọi là sự từ bỏ trong thế giới này; họ thật chứng hoàn toàn bản chất của tất cả các sự vật.” 

 

Từ ngữ Anh Việt

ái dục: Skt. raga; desire; passion; covetuous; greed

kẻ khởi ái dục: Skt. rakta; one desiring; impassioned self; covetous self; impassioned one

các uẩn: the factors of personal existence; các yếu tố của hiện hữu cá nhân)

các xứ: the bases of cognitions; các căn cứ của nhận thức

các giới: the primal elements : đất, nước, gió, lửa, hư không và thức

Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên.

Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming.

không có kiến thức tinh tế: unsophisticated

đồng thời hợp thành: spontaneity; conjunction

dị biệt: separate; separateness; different; difference

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13178)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19335)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24585)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15721)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37801)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13456)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13072)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17153)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13184)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17367)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21606)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13205)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14371)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12788)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13645)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28557)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23364)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32158)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11311)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11994)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26254)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17349)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14510)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34445)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13103)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12266)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13390)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40495)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14442)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13221)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13440)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12506)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13118)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12293)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11771)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12550)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17649)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12190)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12732)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18423)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14279)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12975)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11308)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12134)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13445)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10826)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11063)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10274)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28856)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25234)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26834)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25732)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18644)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22980)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34504)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32123)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30358)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant