Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

21 Tháng Sáu 201705:03(Xem: 7439)
Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Nguyệt Xứng
ÁI DỤC VÀ CÁC PHIỀN NÃO KHÁC
(Giải thích Trung Luận - chương VI)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Bản Anh: Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the PRASANNAPADA of Candrakirti, translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murtiand U.S. Vyas. Routledge 1979 -- pp. 109-114 (Nguyệt Xứng. Hiển bày Trung Đạo. Giải thích Trung Luận của Long Thọ / Minh cú luận)

     Có các cá nhân chủ trương các uẩn, các xứ, và các giới (đất, nước, gió, lửa, hư không và thức) hiện hữu trong thực tế (exist in fact). Trên các nền tảng gì? Do vì sự tri nhận trực tiếp về trạng thái phiền não (samklesa) nó được đặt căn cứ trên uẩn, xứ, giới. Lí luận ở đây là, không thể nào có tri nhận trực tiếp của một trạng thái phiền não được đặt căn cứ trên một cái gì mà nó không hiện hữu, như, chẳng hạn không có tri nhận của con trai một người đàn bà không thể sinh con (thạch nữ) về con gái của một người đàn bà không thể sinh con.  Do thế ái dục (Skt. raga; desire) và các phiền não khác (klesa; afflictions) hiện hữu bởi vì chúng là các căn cứ cần thiết  của trạng thái phiền não.

        Đây là điều Đức Thế Tôn đã nói, “ Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà chúng hứa hẹn hạnh phúc. Từ sự trung thành như thế ái dục được sinh ra; bị ái dục chụp bắt, kẻ này  thực hiện – trong hành động, tư tưởngngôn ngữ – các hành nghiệp được sinh từ ba phiền não, ái dục, sân hậnngu si (raga, dvesa, moha) ...”

           + Nếu giả thiết ái dục hiện hữu cần phải giả thiết tiên quyết kẻ khởi ái dục hiện hữu (Desire presupposes one desiring)

          Trong phần phúc đáp, chúng tôi nói rằng các uẩn, các xứ, và các giới sẽ hiện hữu nếu ái dục và các phiền não khác hiện hữu. Lí luận ở đây sẽ, một là, ái dục, được tri nhận là thực bởi những kẻ thường tục, không có kiến thức tinh tế, sẽ tiên quyết giả thiết (presuppose) một cá nhân hiện hữu mà kẻ này khởi ái dục và, hai là, (sẽ xem xét) kẻ đó  hiện hữu hoặc không hiện hữu. Ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa – hiện hữu, không hiện hữu – đều không hợp lí.

VI. 1 Nếu kẻ khởi ái dục giả sử hiện hữu trước khi có ái dục của kẻ đó, đó là, hoàn toàn cách biệt với ái dục, như vậy ái dục sẽ tùy thuộc vào kẻ khởi ái dục; như vậy nếu có kẻ khởi ái dục thì sẽ có ái dục

          Ở đây “ái dục” bao gồm ái luyến, sự nỗ lực của ái dục, sự tham lợi và sự hết lòng tận tụy.  Ái dục có căn cứ của nó trong kẻ khởi ái dục (rakta). Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu từ trước đối với ái dục của kẻ đó, nghĩa là hoàn toàn cách biệt  với nó, kẻ đó sẽ chẳng có ái dục (rahita); trong trường hợp như thế ái dục sẽ được đặt căn cứ  trên một kẻ khởi ái dục mà kẻ đó cách biệt hoàn toàn với ái dục.  Trong cách nói này, khi nói rằng ái dục có thể sinh khởi trong một cá nhân đang hiện hữu khi mà kẻ ấy ái dục, là điều có lí. Nhưng điều này là bất khả hữu – một cá nhân khởi ái dục mà chẳng có ái dục – và nó sẽ tất nhiên dẫn đến kết quả rằng ngay cả những kẻ trí tuệ có thể có những ái dục.

          Nếu, trong cách nói này, không thể có ái dục trong một kẻ khởi ái dục khi mà kẻ đó hiện hữu, vậy thì hãy xem nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu – nghĩa là không có kẻ đó trước khi có hành động ái dục. Nhưng điều này cũng không hợp lí, ngài Long Thọ nói:

VI. 2ab Nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu, ái dục sẽ sinh khởi cách nào?

          Bởi vì không thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu, làm thế nào có thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu?  Một ái dục, mà nó chẳng có một sở y/cơ sở nương tựa/basis, sẽ là một hiện hữu được thừa nhận – conceded existence – hay sao ? Bởi vì một quả mà nó không hiện hữu không thể có khả hữu trở thành chín.

          + Nếu giả thiết kẻ khởi ái dục hiện hữu, cần phải giả thiết tiên quyết ái dục hiện hữu ( One desiring presupposes desire).

          Một cá nhân có thể phát biểu xen vào: “Ngay dù bạn luận bác ái dục tuy thế kẻ khởi ái dục hiện hữu vì kẻ này không bị luận bác; nhưng kẻ khởi ái dục thì vô nghĩa lí khi chẳng có ái dục; thế nên ái dục cũng hiện hữu.” Phúc đáp của chúng tôi tới kháng biện đó (our rejoinder) là ái dục đó sẽ hiện hữu nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu. Đó là, nếu bạn tuyên bố một cá nhân là kẻ khởi ái dục vậy thì bạn phải giả thiết hoặc là ái dục hiện hữu hoặc là không hiện hữu. Nhưng ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa đó đều là do chẳng có khả năng thông hiểu (But Nagarjuna says that neither alternative is intelligible).

VI. 2cd Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu thì hệ quả như nhau dù cho ái dục hiện hữu hoặc không hiện hữu.

          Nếu bạn tuyên bố kẻ khởi ái dục trên giả thiết về ái dục hiện hữu, nó sẽ đưa đến kết quả là trong trường hợp này bạn xem ái dục hiện hữu cũng là do bạn chẳng có khả năng thông hiểu, tương tự như biện luận mới đây về kẻ khởi ái dục được giả thiếthiện hữu. “Nếu ái dục hiện hữu từ trước đối với kẻ khởi ái dục, đó là, hoàn toàn cách biệt với bất kì kẻ khởi ái dục ...” và v.v... Hoặc bạn có thể xem xét kẻ khởi ái dục trên giả thiết ái dục không hiện hữu. Nhưng điều này không hợp lí. Bởi vì “Nếu ái dục không hiện hữu, làm thế nào có thể có kẻ khởi ái dục? ” (VI. 2ab) – Nó đưa đến kết quả là kẻ khởi ái dục không hiện hữu. Bởi thế ái dục và kẻ khởi ái dục cũng chẳng hiện hữu, các uẩn, xứ, giới cũng chẳng hiện hữu.

(Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên. Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming. ĐHP)

          + Đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục -- (Simultaneity or conjunction of desire and the one desiring)

          Một cá nhân có thể nói xen vào rằng ái dục và kẻ khởi ái dục không sinh khởi cái này sau cái kia / chờ đợi đối đãi như các chỉ trích của chúng tôi giả thiết. Nói đúng hơn, ái dục và kẻ khởi ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành (Skt. sahaiva). Nó là do bởi một ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành với một trạng thái của tâm có tính ái dục, và đó là “kẻ khởi ái dục” (“one desiring”). Do thế cả hai ái dục và kẻ khởi ái dục đều hiện hữu trong thực tế. Ngài Long Thọ cũng phúc đáp ở đây:

VI. 3ab Sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục là không hợp lí;

          Đó là sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục thì không hợp lí, bởi vì,

VI. 3cd  bởi vì ái dục và kẻ khởi ái dục sẽ sinh khởi một cách độc lập với nhau.

          Bởi vì trạng thái đồng thời hợp thành của chúng, tương tự như các sừng phải và trái của một con bò, là ý nghĩa này.

          Bởi vì điều đó (now: because of that) đồng thời hợp thành của hai cái này, ái dục và kẻ khởi ái dục, sẽ phải được nhận thức hoặc là nương tựa vào sự đồng nhất của chúng (ekatva) hoặc vào sự dị biệt của chúng (prthaktva). Bởi vì

VI. 4a Không thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất của ái dục và kẻ khởi ái dục;

          Ngài Long Thọ giải thích lí do tại sao, đó là:

VI. 4b Không thể có sự đồng thời hợp thành của một sự vật với chính nó.

          Tự tính của một ái dục, mà nó không thể bị phân biệt với ái dục, không thể bị xem là đồng thời hợp thành với ái dục.

          Quan liên trường hợp thứ nhì, ngài Long Thọ nói không có sự đồng thời hợp thành của cái gì dị biệt.

VI. 4cd Thêm nữa, làm cách nào có thể sự đồng thời hợp thành của cái gì hoàn toàn dị biệt?

          Thực ra  bạn chẳng bao giờ quan sát sự đồng thời hợp thành của các sự vật mà mỗi cái của chúng hiện hữu dị biệt như ánh sáng và bóng tối, hoặc luân hồiniết bàn.

VI. 5  Nếu có thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất (tỉ dụ, ái dục, kẻ khởi ái dục), vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay cả khi không có thành phần thứ hai; nếu có thể có sự đồng thời hợp thành đặt căn cứ trên hiện hữu dị biệt thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay dù không có thành phần thứ hai.

          Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất, vậy thì bạn có thể nói “bất kì ở đâu khi có sự đồng nhất thì có sự đồng thời hợp thành” và vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành của ngay cả một trong hai thành phần. Thêm nữa , nếu sự đồng thời hợp thành được xem là  dựa trên nguyên lí “bất kì ở đâu khi có sự dị biệt là có sự đồng thời hợp thành”, vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành trong một thành phần mà nó được định nghĩa là dị biệt với cái khác, tỉ như một con bò thì dị biệt với một con ngựa và các con vật khác. Nói thêm nữa,

+ Tính hỗ tương đối đãi của sự đồng thời hợp thành và sự dị biệt (Reciprocality of simultaneity or conjunction and separateness or difference)

VI. 6 Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự dị biệt, sự dị biệt của một ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập theo cách nào, trên căn cứ của cái mà chúng sẽ đồng thời hợp thành?

          Sự đồng thời hợp thành của một ái dục và của kẻ khởi ái dục thì được tưởng tượng nương tựa vào sự dị biệt của chúng. Làm cách nào sự hiện hữu dị biệt của chúng sẽ được thành lập (siddhi)? Làm cách nào kẻ khởi ái dục có thể được thành lập không tùy thuộc vào ái dục để có thể có sự đồng thời hợp thành của cả hai? Mặc dù thế, sự đồng thời hợp thành của con bò và con ngựa, mà nó được thành lập do sự dị biệt, là một vấn đề về quan sát trực tiếp. Nhưng ái dục và kẻ khởi ái dục không được thành lập trong cách này; do thế không có sự đồng thời hợp thành của cặp đôi này.

          Thêm nữa, trên phương diện khác có một điều sáng tỏ là không có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật được thành lập trong vai trò hai cái dị biệt.

VI. 7ab  Thêm nữa, nếu sự dị biệt hoàn toàn của ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập,

          Nếu đối phương giả thiết điều này, do vậy, ngài Long Thọ hỏi, về điều được giả thiết này, có phải đồng thời hợp thành không còn hiệu lực nữa?

VI. 7cd  Mục đích của sự đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục mà ông giả thiết là gì?

          Sự đồng thời hợp thành được hiểu là có mục đích thành lập ái dục và kẻ khởi ái dục. Nhưng không thể nào có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật nếu mỗi sự vật không được thành lập trong vai trò cái dị biệt, và đối phương đang đinh ninh (assuming) rằng mỗi cái đều được thành lập trong vai trò cái dị biệt. Nhưng nếu sự này là như thế, vậy cái gì sẽ đạt được bằng cách thành lập sự đồng thời hợp thành? Đó là,

VI. 8ab Ông giả thiết sự đồng thời hợp thành ngay dù sự hiện hữu dị biệt không được thành lập.

          Ái dục và kẻ khởi ái dục hiển nhiên là không thể được thành lập theo cách chúng vẫn là dị biệt nếu ông xem xét một mình sự đồng thời hợp thành của chúng. Và không thể nào có sự đồng thời hợp thành nếu hai cái này không được thành lập một cách dị biệt.

VI. 8cd  Và dù vậy để làm tốt sự thành lập đồng thời hợp thành ông chấp thuận sự dị biệt.  

          Như vậy luận chứng của đối phương rõ ràng được thành lập trên sự quan liên hỗ tương, cái nào trong hai cái – sự dị biệt, sự đồng thời hợp thành --  là căn cứ của luận chứng và cái nào là cái được chứng nhận? Đó là nói,

VI.9  Nếu sự dị biệt không hiện hữu, sự đồng thời hợp thành không thể thành lập nó; nhưng nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?

          Sự dị biệt không thể hiện hữu như thế và không quan liên tới sự đồng thời hợp thành, mà trong nó sự đồng thời hợp thành có thể được thành lập. Ngài Long Thọ nói nó là bất khả hữu: “nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?”. Do vậy, ngài Long Thọ nói, kết luận bản phân tích đã thực hiện, xác định rằng ái dục và kẻ ái dục không được thành lập,

VI. 10ab  Do vậy ái dục không thể được thành lập trong sự đồng thời hợp thành với kẻ khởi ái dục hoặc một cách độc lập với kẻ khởi ái dục.

          Chính vì ái dục và kẻ khởi ái dục không thể được thành lập hoặc cái này sau cái kia/ chờ đợi đối đãi hoặc một cách đồng thời, do thế, mở rộng kết luận này tới tất cả các sự vật, ngài Long Thọ nói

VI. 10cd  Cũng như trong trường hợp của ái dục, không một pháp nào trong các pháp có thể được thành lập như là đồng thời hợp thành hoặc như là chẳng đồng thời hợp thành.

          Đó là, bạn tiến hành, như với ái dục và kẻ khởi ái dục, để hiển thị sự phi hiện hữu của sân hận và kẻ sân hận, ngu si và kẻ ngu si và v.v...đối với các phiền não khác.

          Vì những lí do này Đức Thế Tôn đã nói rất sáng tỏ, giản dị “Có sự vật mà nó sẽ là ái dục, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của ái dục; có sự vật mà nó sẽ là sân hận, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của sân hận; có sự vật mà nó sẽ là sự ngu si, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối  tượng của ngu si; bạn chẳng hề chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp cũng chẳng hề tri nhận trong bất kì cách nào xem một pháp là như thế. Bạn kẻ chẳng chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp hoặc chẳng tri nhận nó trong bất kì một cách nào là một pháp như thế thì bạn được nói là kẻ chẳng có ái dục, chẳng có sân hận, chẳng có ngu si, có một cái tâm hoàn toàn chẳng có tin tưởng sai bậy/ vọng kiến: là một kẻ thực chứng --  realized man. Kẻ này được nói là đã qua tới bờ kia; đã đạt tịch tĩnh...đã chẳng còn tạo các ảnh hưởng tác hại. Kẻ này được nói là hoàn toàn chẳng có các phiền não, ông chủ của chính mình, kẻ mà tư duy mỗi ngày đều là giải thoát toàn hảo và trí tuệ phân tích của kẻ này là giải thoát toàn hảo; kẻ có các nguồn gốc cao quý, một con rắn  uy lực, kẻ đã làm cái gì theo chương trình sẽ làm, kẻ đã làm cái gì phải làm, kẻ đã làm xong  gánh nặng, đã hoàn thành bổn phận của mình, kẻ đã thành tựu sự diệt tận các khát vọng đối với hiện hữu, kẻ mà tâm được giải thoát toàn hảo do tu tập chân chính, kẻ đã đạt sự  làm chủ hoàn toàn trên tất cả tâm niệm. Kẻ như thế được gọi là sa môn – sramana” Chánh Định Vương Kinh –Samadhiraja Sutra.Và v.v...

          Và kế tiếpkệ tụng này:

“ Những kẻ lí hội thông hiểu rằng bản chất của ái dục, sân hận, các say đắmngu si nhảy vọt từ một ý chí bị sinh ra bởi sự sai trật –falsity, (thế nên) họ từ bỏ những những tưởng tượng mơ hồ vô ích; đối với những kẻ như thế thì chẳng có cái gọi là sự từ bỏ trong thế giới này; họ thật chứng hoàn toàn bản chất của tất cả các sự vật.” 

 

Từ ngữ Anh Việt

ái dục: Skt. raga; desire; passion; covetuous; greed

kẻ khởi ái dục: Skt. rakta; one desiring; impassioned self; covetous self; impassioned one

các uẩn: the factors of personal existence; các yếu tố của hiện hữu cá nhân)

các xứ: the bases of cognitions; các căn cứ của nhận thức

các giới: the primal elements : đất, nước, gió, lửa, hư không và thức

Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên.

Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming.

không có kiến thức tinh tế: unsophisticated

đồng thời hợp thành: spontaneity; conjunction

dị biệt: separate; separateness; different; difference

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30625)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20974)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20171)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19397)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24356)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30615)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15657)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27748)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19742)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15549)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23199)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23523)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17487)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15661)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21837)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37943)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22073)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23201)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21303)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28387)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32498)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22894)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27652)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31261)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13580)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25115)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27766)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22053)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20705)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22187)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27074)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24091)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21859)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14689)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23105)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23975)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21047)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14175)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19905)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22473)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14045)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27990)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22777)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28163)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10968)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28467)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31528)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26141)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14893)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28006)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7384)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25318)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20681)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21099)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12205)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11883)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12780)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26609)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant