Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

21 Tháng Sáu 201705:03(Xem: 7339)
Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Nguyệt Xứng
ÁI DỤC VÀ CÁC PHIỀN NÃO KHÁC
(Giải thích Trung Luận - chương VI)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Ái Dục Và Các Phiền Não Khác

Bản Anh: Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the PRASANNAPADA of Candrakirti, translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murtiand U.S. Vyas. Routledge 1979 -- pp. 109-114 (Nguyệt Xứng. Hiển bày Trung Đạo. Giải thích Trung Luận của Long Thọ / Minh cú luận)

     Có các cá nhân chủ trương các uẩn, các xứ, và các giới (đất, nước, gió, lửa, hư không và thức) hiện hữu trong thực tế (exist in fact). Trên các nền tảng gì? Do vì sự tri nhận trực tiếp về trạng thái phiền não (samklesa) nó được đặt căn cứ trên uẩn, xứ, giới. Lí luận ở đây là, không thể nào có tri nhận trực tiếp của một trạng thái phiền não được đặt căn cứ trên một cái gì mà nó không hiện hữu, như, chẳng hạn không có tri nhận của con trai một người đàn bà không thể sinh con (thạch nữ) về con gái của một người đàn bà không thể sinh con.  Do thế ái dục (Skt. raga; desire) và các phiền não khác (klesa; afflictions) hiện hữu bởi vì chúng là các căn cứ cần thiết  của trạng thái phiền não.

        Đây là điều Đức Thế Tôn đã nói, “ Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà chúng hứa hẹn hạnh phúc. Từ sự trung thành như thế ái dục được sinh ra; bị ái dục chụp bắt, kẻ này  thực hiện – trong hành động, tư tưởngngôn ngữ – các hành nghiệp được sinh từ ba phiền não, ái dục, sân hậnngu si (raga, dvesa, moha) ...”

           + Nếu giả thiết ái dục hiện hữu cần phải giả thiết tiên quyết kẻ khởi ái dục hiện hữu (Desire presupposes one desiring)

          Trong phần phúc đáp, chúng tôi nói rằng các uẩn, các xứ, và các giới sẽ hiện hữu nếu ái dục và các phiền não khác hiện hữu. Lí luận ở đây sẽ, một là, ái dục, được tri nhận là thực bởi những kẻ thường tục, không có kiến thức tinh tế, sẽ tiên quyết giả thiết (presuppose) một cá nhân hiện hữu mà kẻ này khởi ái dục và, hai là, (sẽ xem xét) kẻ đó  hiện hữu hoặc không hiện hữu. Ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa – hiện hữu, không hiện hữu – đều không hợp lí.

VI. 1 Nếu kẻ khởi ái dục giả sử hiện hữu trước khi có ái dục của kẻ đó, đó là, hoàn toàn cách biệt với ái dục, như vậy ái dục sẽ tùy thuộc vào kẻ khởi ái dục; như vậy nếu có kẻ khởi ái dục thì sẽ có ái dục

          Ở đây “ái dục” bao gồm ái luyến, sự nỗ lực của ái dục, sự tham lợi và sự hết lòng tận tụy.  Ái dục có căn cứ của nó trong kẻ khởi ái dục (rakta). Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu từ trước đối với ái dục của kẻ đó, nghĩa là hoàn toàn cách biệt  với nó, kẻ đó sẽ chẳng có ái dục (rahita); trong trường hợp như thế ái dục sẽ được đặt căn cứ  trên một kẻ khởi ái dục mà kẻ đó cách biệt hoàn toàn với ái dục.  Trong cách nói này, khi nói rằng ái dục có thể sinh khởi trong một cá nhân đang hiện hữu khi mà kẻ ấy ái dục, là điều có lí. Nhưng điều này là bất khả hữu – một cá nhân khởi ái dục mà chẳng có ái dục – và nó sẽ tất nhiên dẫn đến kết quả rằng ngay cả những kẻ trí tuệ có thể có những ái dục.

          Nếu, trong cách nói này, không thể có ái dục trong một kẻ khởi ái dục khi mà kẻ đó hiện hữu, vậy thì hãy xem nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu – nghĩa là không có kẻ đó trước khi có hành động ái dục. Nhưng điều này cũng không hợp lí, ngài Long Thọ nói:

VI. 2ab Nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu, ái dục sẽ sinh khởi cách nào?

          Bởi vì không thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu, làm thế nào có thể có ái dục nếu kẻ khởi ái dục không hiện hữu?  Một ái dục, mà nó chẳng có một sở y/cơ sở nương tựa/basis, sẽ là một hiện hữu được thừa nhận – conceded existence – hay sao ? Bởi vì một quả mà nó không hiện hữu không thể có khả hữu trở thành chín.

          + Nếu giả thiết kẻ khởi ái dục hiện hữu, cần phải giả thiết tiên quyết ái dục hiện hữu ( One desiring presupposes desire).

          Một cá nhân có thể phát biểu xen vào: “Ngay dù bạn luận bác ái dục tuy thế kẻ khởi ái dục hiện hữu vì kẻ này không bị luận bác; nhưng kẻ khởi ái dục thì vô nghĩa lí khi chẳng có ái dục; thế nên ái dục cũng hiện hữu.” Phúc đáp của chúng tôi tới kháng biện đó (our rejoinder) là ái dục đó sẽ hiện hữu nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu. Đó là, nếu bạn tuyên bố một cá nhân là kẻ khởi ái dục vậy thì bạn phải giả thiết hoặc là ái dục hiện hữu hoặc là không hiện hữu. Nhưng ngài Long Thọ nói rằng cả hai chọn lựa đó đều là do chẳng có khả năng thông hiểu (But Nagarjuna says that neither alternative is intelligible).

VI. 2cd Nếu kẻ khởi ái dục hiện hữu thì hệ quả như nhau dù cho ái dục hiện hữu hoặc không hiện hữu.

          Nếu bạn tuyên bố kẻ khởi ái dục trên giả thiết về ái dục hiện hữu, nó sẽ đưa đến kết quả là trong trường hợp này bạn xem ái dục hiện hữu cũng là do bạn chẳng có khả năng thông hiểu, tương tự như biện luận mới đây về kẻ khởi ái dục được giả thiếthiện hữu. “Nếu ái dục hiện hữu từ trước đối với kẻ khởi ái dục, đó là, hoàn toàn cách biệt với bất kì kẻ khởi ái dục ...” và v.v... Hoặc bạn có thể xem xét kẻ khởi ái dục trên giả thiết ái dục không hiện hữu. Nhưng điều này không hợp lí. Bởi vì “Nếu ái dục không hiện hữu, làm thế nào có thể có kẻ khởi ái dục? ” (VI. 2ab) – Nó đưa đến kết quả là kẻ khởi ái dục không hiện hữu. Bởi thế ái dục và kẻ khởi ái dục cũng chẳng hiện hữu, các uẩn, xứ, giới cũng chẳng hiện hữu.

(Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên. Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming. ĐHP)

          + Đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục -- (Simultaneity or conjunction of desire and the one desiring)

          Một cá nhân có thể nói xen vào rằng ái dục và kẻ khởi ái dục không sinh khởi cái này sau cái kia / chờ đợi đối đãi như các chỉ trích của chúng tôi giả thiết. Nói đúng hơn, ái dục và kẻ khởi ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành (Skt. sahaiva). Nó là do bởi một ái dục sinh khởi đồng thời hợp thành với một trạng thái của tâm có tính ái dục, và đó là “kẻ khởi ái dục” (“one desiring”). Do thế cả hai ái dục và kẻ khởi ái dục đều hiện hữu trong thực tế. Ngài Long Thọ cũng phúc đáp ở đây:

VI. 3ab Sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục là không hợp lí;

          Đó là sự sinh khởi đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục thì không hợp lí, bởi vì,

VI. 3cd  bởi vì ái dục và kẻ khởi ái dục sẽ sinh khởi một cách độc lập với nhau.

          Bởi vì trạng thái đồng thời hợp thành của chúng, tương tự như các sừng phải và trái của một con bò, là ý nghĩa này.

          Bởi vì điều đó (now: because of that) đồng thời hợp thành của hai cái này, ái dục và kẻ khởi ái dục, sẽ phải được nhận thức hoặc là nương tựa vào sự đồng nhất của chúng (ekatva) hoặc vào sự dị biệt của chúng (prthaktva). Bởi vì

VI. 4a Không thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất của ái dục và kẻ khởi ái dục;

          Ngài Long Thọ giải thích lí do tại sao, đó là:

VI. 4b Không thể có sự đồng thời hợp thành của một sự vật với chính nó.

          Tự tính của một ái dục, mà nó không thể bị phân biệt với ái dục, không thể bị xem là đồng thời hợp thành với ái dục.

          Quan liên trường hợp thứ nhì, ngài Long Thọ nói không có sự đồng thời hợp thành của cái gì dị biệt.

VI. 4cd Thêm nữa, làm cách nào có thể sự đồng thời hợp thành của cái gì hoàn toàn dị biệt?

          Thực ra  bạn chẳng bao giờ quan sát sự đồng thời hợp thành của các sự vật mà mỗi cái của chúng hiện hữu dị biệt như ánh sáng và bóng tối, hoặc luân hồiniết bàn.

VI. 5  Nếu có thể có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất (tỉ dụ, ái dục, kẻ khởi ái dục), vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay cả khi không có thành phần thứ hai; nếu có thể có sự đồng thời hợp thành đặt căn cứ trên hiện hữu dị biệt thì sẽ có sự đồng thời hợp thành ngay dù không có thành phần thứ hai.

          Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự đồng nhất, vậy thì bạn có thể nói “bất kì ở đâu khi có sự đồng nhất thì có sự đồng thời hợp thành” và vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành của ngay cả một trong hai thành phần. Thêm nữa , nếu sự đồng thời hợp thành được xem là  dựa trên nguyên lí “bất kì ở đâu khi có sự dị biệt là có sự đồng thời hợp thành”, vậy thì sẽ có sự đồng thời hợp thành trong một thành phần mà nó được định nghĩa là dị biệt với cái khác, tỉ như một con bò thì dị biệt với một con ngựa và các con vật khác. Nói thêm nữa,

+ Tính hỗ tương đối đãi của sự đồng thời hợp thành và sự dị biệt (Reciprocality of simultaneity or conjunction and separateness or difference)

VI. 6 Nếu có sự đồng thời hợp thành trong sự dị biệt, sự dị biệt của một ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập theo cách nào, trên căn cứ của cái mà chúng sẽ đồng thời hợp thành?

          Sự đồng thời hợp thành của một ái dục và của kẻ khởi ái dục thì được tưởng tượng nương tựa vào sự dị biệt của chúng. Làm cách nào sự hiện hữu dị biệt của chúng sẽ được thành lập (siddhi)? Làm cách nào kẻ khởi ái dục có thể được thành lập không tùy thuộc vào ái dục để có thể có sự đồng thời hợp thành của cả hai? Mặc dù thế, sự đồng thời hợp thành của con bò và con ngựa, mà nó được thành lập do sự dị biệt, là một vấn đề về quan sát trực tiếp. Nhưng ái dục và kẻ khởi ái dục không được thành lập trong cách này; do thế không có sự đồng thời hợp thành của cặp đôi này.

          Thêm nữa, trên phương diện khác có một điều sáng tỏ là không có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật được thành lập trong vai trò hai cái dị biệt.

VI. 7ab  Thêm nữa, nếu sự dị biệt hoàn toàn của ái dục và kẻ khởi ái dục được thành lập,

          Nếu đối phương giả thiết điều này, do vậy, ngài Long Thọ hỏi, về điều được giả thiết này, có phải đồng thời hợp thành không còn hiệu lực nữa?

VI. 7cd  Mục đích của sự đồng thời hợp thành của ái dục và kẻ khởi ái dục mà ông giả thiết là gì?

          Sự đồng thời hợp thành được hiểu là có mục đích thành lập ái dục và kẻ khởi ái dục. Nhưng không thể nào có sự đồng thời hợp thành của hai sự vật nếu mỗi sự vật không được thành lập trong vai trò cái dị biệt, và đối phương đang đinh ninh (assuming) rằng mỗi cái đều được thành lập trong vai trò cái dị biệt. Nhưng nếu sự này là như thế, vậy cái gì sẽ đạt được bằng cách thành lập sự đồng thời hợp thành? Đó là,

VI. 8ab Ông giả thiết sự đồng thời hợp thành ngay dù sự hiện hữu dị biệt không được thành lập.

          Ái dục và kẻ khởi ái dục hiển nhiên là không thể được thành lập theo cách chúng vẫn là dị biệt nếu ông xem xét một mình sự đồng thời hợp thành của chúng. Và không thể nào có sự đồng thời hợp thành nếu hai cái này không được thành lập một cách dị biệt.

VI. 8cd  Và dù vậy để làm tốt sự thành lập đồng thời hợp thành ông chấp thuận sự dị biệt.  

          Như vậy luận chứng của đối phương rõ ràng được thành lập trên sự quan liên hỗ tương, cái nào trong hai cái – sự dị biệt, sự đồng thời hợp thành --  là căn cứ của luận chứng và cái nào là cái được chứng nhận? Đó là nói,

VI.9  Nếu sự dị biệt không hiện hữu, sự đồng thời hợp thành không thể thành lập nó; nhưng nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?

          Sự dị biệt không thể hiện hữu như thế và không quan liên tới sự đồng thời hợp thành, mà trong nó sự đồng thời hợp thành có thể được thành lập. Ngài Long Thọ nói nó là bất khả hữu: “nếu sự dị biệt không hiện hữu vậy thì sự đồng thời hợp thành nào ông có thể có trong tâm?”. Do vậy, ngài Long Thọ nói, kết luận bản phân tích đã thực hiện, xác định rằng ái dục và kẻ ái dục không được thành lập,

VI. 10ab  Do vậy ái dục không thể được thành lập trong sự đồng thời hợp thành với kẻ khởi ái dục hoặc một cách độc lập với kẻ khởi ái dục.

          Chính vì ái dục và kẻ khởi ái dục không thể được thành lập hoặc cái này sau cái kia/ chờ đợi đối đãi hoặc một cách đồng thời, do thế, mở rộng kết luận này tới tất cả các sự vật, ngài Long Thọ nói

VI. 10cd  Cũng như trong trường hợp của ái dục, không một pháp nào trong các pháp có thể được thành lập như là đồng thời hợp thành hoặc như là chẳng đồng thời hợp thành.

          Đó là, bạn tiến hành, như với ái dục và kẻ khởi ái dục, để hiển thị sự phi hiện hữu của sân hận và kẻ sân hận, ngu si và kẻ ngu si và v.v...đối với các phiền não khác.

          Vì những lí do này Đức Thế Tôn đã nói rất sáng tỏ, giản dị “Có sự vật mà nó sẽ là ái dục, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của ái dục; có sự vật mà nó sẽ là sân hận, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối tượng của sân hận; có sự vật mà nó sẽ là sự ngu si, hoặc là vị trí tọa thủ hoặc là đối  tượng của ngu si; bạn chẳng hề chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp cũng chẳng hề tri nhận trong bất kì cách nào xem một pháp là như thế. Bạn kẻ chẳng chiếu soi/tư duy một cách trực tiếp hoặc chẳng tri nhận nó trong bất kì một cách nào là một pháp như thế thì bạn được nói là kẻ chẳng có ái dục, chẳng có sân hận, chẳng có ngu si, có một cái tâm hoàn toàn chẳng có tin tưởng sai bậy/ vọng kiến: là một kẻ thực chứng --  realized man. Kẻ này được nói là đã qua tới bờ kia; đã đạt tịch tĩnh...đã chẳng còn tạo các ảnh hưởng tác hại. Kẻ này được nói là hoàn toàn chẳng có các phiền não, ông chủ của chính mình, kẻ mà tư duy mỗi ngày đều là giải thoát toàn hảo và trí tuệ phân tích của kẻ này là giải thoát toàn hảo; kẻ có các nguồn gốc cao quý, một con rắn  uy lực, kẻ đã làm cái gì theo chương trình sẽ làm, kẻ đã làm cái gì phải làm, kẻ đã làm xong  gánh nặng, đã hoàn thành bổn phận của mình, kẻ đã thành tựu sự diệt tận các khát vọng đối với hiện hữu, kẻ mà tâm được giải thoát toàn hảo do tu tập chân chính, kẻ đã đạt sự  làm chủ hoàn toàn trên tất cả tâm niệm. Kẻ như thế được gọi là sa môn – sramana” Chánh Định Vương Kinh –Samadhiraja Sutra.Và v.v...

          Và kế tiếpkệ tụng này:

“ Những kẻ lí hội thông hiểu rằng bản chất của ái dục, sân hận, các say đắmngu si nhảy vọt từ một ý chí bị sinh ra bởi sự sai trật –falsity, (thế nên) họ từ bỏ những những tưởng tượng mơ hồ vô ích; đối với những kẻ như thế thì chẳng có cái gọi là sự từ bỏ trong thế giới này; họ thật chứng hoàn toàn bản chất của tất cả các sự vật.” 

 

Từ ngữ Anh Việt

ái dục: Skt. raga; desire; passion; covetuous; greed

kẻ khởi ái dục: Skt. rakta; one desiring; impassioned self; covetous self; impassioned one

các uẩn: the factors of personal existence; các yếu tố của hiện hữu cá nhân)

các xứ: the bases of cognitions; các căn cứ của nhận thức

các giới: the primal elements : đất, nước, gió, lửa, hư không và thức

Hiện hữu nghĩa là liên tồn/tồn liên.

Các pháp đều là sát na biến dịch – momentarines, tương tục của trở thành – continumm of becoming.

không có kiến thức tinh tế: unsophisticated

đồng thời hợp thành: spontaneity; conjunction

dị biệt: separate; separateness; different; difference

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18570)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12478)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11691)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13020)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12045)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12384)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11544)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11891)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10522)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10835)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28163)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11047)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11278)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13503)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 10962)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11341)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10806)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11097)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12289)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14793)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 10957)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12251)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11384)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10667)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23779)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11760)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12189)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12675)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 10951)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38563)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10440)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12053)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17566)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24872)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10424)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10635)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 11931)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11191)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11516)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14618)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21338)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9789)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11157)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11087)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11719)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10892)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14201)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11375)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12549)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12158)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 10936)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10809)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13234)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11668)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13557)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11794)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11048)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant