Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

06 Tháng Bảy 201705:04(Xem: 7075)
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

Phước Nguyên

Tương Ưng Và An Trụ

I/ĐỊNH NGHĨA

I.1.Định nghĩa uẩn

Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn[1].

Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm: Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi (saṃskṛta).

Từ skandha, Hán dịch là uẩn với ý nghĩa: tích tập. Theo A-tì-đạt ma Câu-xá luận[2], chữ ‘uẩn’ có ba ý nghĩa:

-Hòa hợp tụ: Nhiều yếu tố tích nhóm một chỗ.

-Kiên: Kiên là vai. Vai có thể mang gánh nặng (kāryabhārodvahana) việc phải làm, “chúng sinh mang gánh nặng của uẩn mà đi qua những lối hiểm nghèo của sinh tử[3].

-Chia đoạn: cái khả phân (praccheda), bộ phận, phần được chia cắt. Yaśomitra nói: “Cái khả phân, là cái có hạn lượng, có giới hạn, có hạn kỳ[4].

Phẩm Phân biệt giới của luận Câu-xá cũng giải thích:

rāśyāyadvāragotrārthāḥ skandhāyatanadhātavaḥ/”[5]:

“Uẩn, xứ và giới,

có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc.”

Như vậy, ở đây chữ ‘skandha: khối, tích tập, chứa nhóm v.v..

Chúng ta có thể xem kinh Tạp A-hàm thuộc Đại Chánh Tân Tu, trang 15a, giải thích tường tận về sắc uẩn.

Hoặc chúng ta có thể đọc lại đoạn kinh văn Pāli tương đương:

Yaṃ kiñci bhikkhu rūpaṃ atītānāgatapaccuppannam ajhattaṃ vā bahiddhā vā oḷālikaṃ vā sukhumaṃ vā hiṇaṃ vā paṇitaṃ vā yaṃ dūre santike vā[6].

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoăc thô, hoặc vi tế, hoặc thấp kém, hoặc vi diệu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả được tổng hợp làm một và gọi đó là sắc uẩn”.

A-tỳ-đạt-ma Đại Tì-bà-sa luận, giải thích uẩn có bốn nghĩa: “Uẩn có nghĩa là tụ ; hiệp ; tích 積; lược 略.[7]

Vì từ Sanskrit ở đây là rāśi, với ý nghĩa là: đống, tụ, tích tụ…

Trong Madhyāntavibhāga-bhāṣya[8], có bài tụng về nghĩa của uẩn: “anekatvābhisaṃkṣepaparicchedārtha āditaḥ”, mà Biện trung biên luận chữ Hán dịch là: “非一及總略, 分段義名蘊: phi nhất cùng tổng lược/phân đoạn là nghĩa uẩn” [9]. Theo đây, uẩn có ba nghĩa:

-Phi nhất (anekatva): không phải một yếu tố.

-Tổng lược (abhisaṃkṣepa): tất cả gom thành một khối.

-Phân đoạn (pariccheda): phân nhóm, tùy theo đặc tính khác nhau của chúng.

Từ skandha, còn được dịch là Ấm 陰, với ý nghĩache đậy, đôi khi skandha còn được dịch là Chúng 眾, hoặc cũng dịch là Tụ 聚 v.v..

I.2.Thủ uẩn

“Thủ uẩn 取蘊”, Sanskrit: upādānaskandhā, cũng gọi là thủ ấm 取陰. Câu-xá luận định nghĩa:

 “/8a/ Hữu lậuthủ uẩn...*

 Ở đây, nó được xác định như thế nào? Các thủ uẩn đều được xác định là uẩn.

Nhưng cũng có các uẩn mà không phải thủ uẩn. Đó là các hành vô lậu. Trong đây, các thủ chính là các phiền não.

Hoặc uẩn từ thủ phát sinh, nên gọi là thủ uẩn. Như nói: lửa sinh ra từ trấu, từ rơm nên gọi là lửa trấu, lửa rơm.

Hoặc uẩn lệ thuộc thủ nên nói là thủ uẩn. Như bề tôi trực thuộc Vua nên nói là bề tôi của Vua (Vương thần).

Hoặc uẩn sinh thủ nên nói là thủ uẩn. Như cây sinh ra hoa, quả nên nói là cây hoa, cây ăn trái.”[10]

Như vậy, chữ ‘thủ’ trong năm thủ uẩn, đồng nghĩa với “thủ (upādāna)” trong 12 chi duyên khởi, phân tích thành động từ: upā-√dā, bám chặt, vin vào, mà chấp làm tự ngã.

A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận (trang 511) định nghĩa: Thủ là giai đoạn tăng trưởng mãnh liệt của Khát ái.”

Vậy thủ ở đây được hiểu là bám chặt vào bất cứ cái gì mà quá trình Khát ái đã mãnh liệt săn đuổi. Nên ngài Vasubandhu nói Thủ tức là phiền não là do nghĩa này.

II/PHÂN TÍCH NĂM UẨN

1.Sắc uẩn (Rūpa-skandha)

Chữ sắc 色, Sanskrit: rūpa: khối vật chất, có hai động từ căn: 1/√rūp: tạo hình, khung đỡ;[11] 2/ √rup: đau đớn, vỡ tan[12]

Có thể đọc lại đoạn kinh sau để thấy ý nghĩa sắc uẩn:

Kiñca bhikkhave rūpaṃ vadetha. ruppatīti kho bhikkhave tasmā rūpan ti vuccati kena ruppati. sītena[13]

“Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Nó băng hoại, này các Tỷ-kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị băng hoại bởi cái gì? Bởi đá, v.v…” .

Theo ngữ nguyên này, chữ rūpa, do động từ rump [lump]: tan vỡ. Ngài Sthiramati trong Quảng nuẩn luận định nghĩa:

Sắc uẩn là gì? Đó là bốn đại chủng và những gì được dồn lại từ bốn đại chủng (đại chủng sở tạo)”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá:

Sắc uẩn là gì?

(9a-b) Sắc chỉ là năm căn       

Năm cảnh và vô biểu**

Giải thích rằng: Năm căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt cănthân căn. Năm cảnh: tức cảnh giới của năm căn, nhãn . . .; đó là sắc, thanh, hương, vị và xúc. Vô biểu: là vô biểu sắc. Chỉ căn cứ vào số lượng này để thành lập tên gọi sắc uẩn.”[14]

*Giải thích thuật ngữ:

Sắc, tức khối vật chất được kết cấu, tạo hình lại theo nguyên lý không bền vững cho nên gọi là sắc uẩn.

Năm căn, chữ căn tiếng Sanskrit là indriya, tức bộ máy hoạt động. Theo Vasubandhu: căn là thế lực ưu việt khiến phát triển; phân biệt với ‘căn’ mà Sanskrit viết là mūla: rễ cây.

Định nghĩa bởi luận Kośa ii: kaḥ punar indriyārthaḥ idi paramiśvarye. tasya indantīti indriyāṇi. ata ādhipatyārtha indriyārthaḥ. “Căn là gì? Do động từ căn √id (= ind: đốt cháy) có nghĩa là ưu thế và chủ động. Chúng nó đốt cháy, do đó chúng nó là căn”. Căn như vậy có nghĩa là sự chi phối.

Theo bản Hán dịch Câu-xá luận 3, trang 13b12, Huyền Tráng dịch: 最勝自在光顯名根由此總成根增上義. Căn, theo đó, có ba nghĩa: tối thắng, tự tại, tăng thượng.

Năm cảnh[15], năm đối tượng của năm căn, tức sắc, thanh, hương, vị và xúc. Chữ “cảnh”: đối tượng, cũng gọi là “trần”.

Vô biểu, tuy lấy sắc nghiệp làm tính như hữu biểu, nhưng nó không hiện bày ra ngoài khiến cho người ta nhìn thấy nên nói là vô biểu. Tóm lại, vô biểu là sắc hoặc thiện, hoặc bất thiện sinh ra từ biểu nghiệp, hay từ định.

2. Thọ uẩn (Vedanā-skandha)

Định nghĩa bởi luận Kośa, i. 14: vedanā’ nubhavaḥ, thọ là sự cảm nghiệm (Thọ lãnh nạp tùy xúc 受領納隨觸).

Định nghĩa này cũng được Sthiramati đề cập: vedanā anubhavasvabhāvā, thọ, có tự thể là cảm nghiệm.

Đoạn văn tương đương cũng tìm thấy trong văn hệ Pāli: “vedayatī‟ti kho bhikkhave tasmā vedanā ti” nó cảm nhận, do đó nó được nói là thọ.

Ngài Sthiramati định nghĩa trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận (trang 0851b15): “Thọ uẩn là gì? Thọ là sự cảm nhận của thức. Thọ có ba loại: lạc thọ, khổ thọ và thọ không lạc không khổ”.

-Thuận chánh lý 2 (trang 338c26): Thọ có hai, 1. chấp thủ thọ, tất cả tâm và tâm sở đều cảm nghiệm cảnh sở duyên riêng biệt của nó; 2. tự tính thọ, sự cảm nghiệm tùy theo xúc, là đặc tính riêng biệt của thọ.

Theo luận Câu-xá, thọ uẩn có ba loại: lạc, khổ, bất khổ bất lạc. Lại nữa, thọ được chia thành sáu loại cảm nhận của thân (lục thọ thân) - cảm nhận sinh ra do nhãn thức tiếp xúc với sắc trần; cho đến cảm nhận sinh ra do ý thức tiếp xúc với pháp trần.

3. Tưởng uẩn (saṃjñā-skandha):

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b20 định nghĩa: “Tưởng uẩn là gì? Là tác dụng tâm lý nắm bắt thật nhiều các tướng trạng cảnh giới, nó làm tăng thêm sức mạnh nắm bắt”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá (k.14cd): “saṃjñā nimittodgrahaṇātmikā, tự thể của tưởng là nắm bắt tín hiệu” (tướng thủ tượng vi thể 想取像為體).

Kinh tạng Pāli cũng định nghĩa tương đương: sañjānātī ti kho bhikkhave tasma saññā ti vuccati, nó tri giác (tri nhận), do đó nó được nói là tưởng.”

Tóm lại, Tưởng uẩn lấy sự chấp thủ ảnh tượng làm thể, tức là chấp thủ các tướng xanh vàng, dài ngắn, nam nữ, oán thân, khổ vui v.v... Tưởng cũng chia thành sáu loại tưởng thân, y cứ theo cách nói của thọ để hiểu.

4. Hành uẩn (saṃskāra-skandha):

Hành tức ý chí, cái động lực thúc đẩy tạo nghiệp.

Tiếng Sanskrit gọi là saṃskāra, có rất nhiều nghĩa.

Nếu nó đi từ động từ căn sa-√skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau.

Nhưng nếu nó đi từ động từ căn sas-√kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác động liên kết.

Theo các nhà Phật học A-tỳ-đàm thì hành động của thân và ngữ hoàn toàn được chỉ đạo hay thúc đẩy bởi Tư hay Ý chí (cetanā).

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b22, định nghĩa: “Hành uẩn là gì? Trừ thọ uẩn, tưởng uẩn ra, những tâm pháptâm bất tương ưng hành còn lại là hành uẩn.”

Hành uẩn giải thích theo kinh tạng Pāli:

saṅkhataṃ abhisaṅkharontī‟ti kho bhikkhavve saṅkhārā‟ ti vuccati.

“Chúng tác thành pháp hữu vi, do đó chúng được nói là các hành”.

Ngài Vasubandhu giảng luận rõ:

Ngoài (các hành thuộc) sắc, thọ, tưởng và thức, tất cả các hành còn lại gọi là hành uẩn… hành là tạo tác, tư là tự thể của tạo tác (nghiệp); nó (tư) có lực tạo tác mạnh mẽ cho nên gọi là tối thắng. Do vậy, đức Phật dạy: nếu có khả năng tạo tác các pháp hữu lậu, hữu vi, gọi đó là hành thủ uẩn ... Nếu không như vậy, các tâm sở khác và các bất tương ưng hành pháp không nhiếp thuộc vào uẩn… Cho nên, ngoài bốn uẩn, các pháp hữu vi còn lại đều nhiếp thuộc hành uẩn.

Vậy thì Hành không phải gì xa lạ, mà chính là Ý chí, hay động lực thúc đẩy để tạo ra nghiệp.

5. Thức uẩn (vijñāna-skandha)

Thức tiếng Sanskrit gọi là vijñāna: sự nhận thức, thông tin.

Định nghĩa thức uẩn theo luận Câu-xá 1: “vijñānaṃ prati vijñaptiḥ, Thức là sự nhận thức từng đối tượng cá biệt” (Thức vị các liễu biệt 識謂各了別).

Mỗi thức đối với từng đối tượng riêng của nó thủ đắc tổng tướng cho nên gọi là thức uẩn. Lại nữa, thức uẩn còn chia thành sáu loại thức thân: nhãn thức thân cho đến ý thức thân.

Định nghĩa theo Kinh tạng Pāli: vijānātī‟ ti kho bhikkhave viññānan‟ ti vuccati, nó liễu biệt, do đó nó được gọi là thức.

Vậy thức uẩn ở đây chỉ cho sáu thức, mà thể tính của nó là sự tri nhận hay thông tri cá biệt các đối tượng.


 

III.NGUYÊN LÝ DUYÊN KHỞI: THỨC - DANH SẮC

Khi giải thích mười hai chi duyên khởi, đức Phật nêu rõ định thức: “Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Thức”, nghĩa là: “Do duyên là Thức mà có Danh sắc, do duyên là Danh sắc mà có Thức”.

Chữ Thức, tiếng Sanskrit là Vijñāpti, đi từ động từ căn vi-√jña có nghĩa là thông tin, cái thông tin, cũng hiểu là công cụ thông tin, hoặc cái dùng để nhận thức, chỉ cho thức thứ tám. Thức này luận sư kinh bộ gọi là “kết sinh thức (patisandhi-viññāna) nghĩa là thức kết nối giữa đời này và đời khác. Các nhà Phật học A-tì-đàm gọi là “Tối hậu tâm 最後心”[16]. Ngài Uất-lăng-Ca (Udlanka) gọi là “Sinh phần chuyển 生分轉”[17].

Yếu tố hình thành về tinh thần gọi là Danh (nama); yếu tố hình thành về vật chất gọi là Sắc (rūpa). Năm uẩn, chia theo danh sắc như sau: Danh (thọ, tưởng, hành, thức uẩn) – Sắc (sắc uẩn).

Vậy thì như đã nói, không thể tồn tại độc lập một thức A-lại-da, hay căn bản thức ngoài phần “Sắc”; ngược lại, nếu phần “Sắc uẩn hay Sắc” không có danh hay thức tồn tại trên nó để duy trì, thì sắc đó sẽ tan hoại và thối rã ngay lập tức.

Từ đó, chúng ta rút ra được kết luận, sau khi chết lập tức phải có năm uẩn mới, dù chấp nhậntrung hữu hay không có trung hữu, thì trung hữu đó cũng là một đời sống mới. Và tất cả đời sống đó, dù là từ lúc sinh ra cho đến lúc mạng chungtái sinh, thì đời sống đó chỉ là khối giả hợp giữa Danh và Sắc, trên nguyên lý duyên khởi và nguyên lý đó cũng chính là nguyên lý vô ngã, vì chúng là một khối kết hợp nhiều thành phần lại với nhau, bỏ riêng từng thứ ra thì không có gì gọi là tự ngã cả, không gì là ta hay sở hữu của ta.

Như vậy, chỉ khi nào vượt quahai loại hình sanh tử” thể nghiệm vô thượng Niết-bàn, khi đó mới có sự an lạc tuyệt đối, vượt qua mọi giả hợp của thế gian.

IV.KẾT LUẬN: CHIÊM NGHIỆMTHỰC HÀNH

Thực hành theo sự quán sát chân chánh, tức sẽ phát sinh được chánh tư duy về năm thủ uẩn, sự quán sát đó được dạy rõ trong kinh Tạp A-hàm, kinh số 1-8, thuộc thiên Tương ưng năm uẩn:

“Quán sát sắc là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.

Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát”.

Kinh cũng nói: “Như vậy, nếu muốn tự chứng tâm giải thoát này thì có thể tự chứng, biết rằng: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong và tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.’[18]đức Phật kết luận: “Cũng như quán sát vô thường, quán sát khổ, không, phi ngã cũng vậy.” Vậy thì, căn cứ trên kinh tạngluận tạng chúng ta có thể tổng quát nguyên lý năm thủ uẩn dựa trên vô thường-khổ-không-vô ngã như sau[19]:

a. Vô thường:- Bốn hành tướng trong khổ đế, vô thường có ba: 1. Vô tính vô thường, vì tính thể vĩnh viễn không tồn tại. 2. Khởi tận vô thường, vì có sinh và có diệt. 3. Cấu tịnh vô thường, vì chuyển biến trạng thái.

 b. Khổ.- Khổ có ba: 1. Sở thủ khổ, vì bị chấp thủ bởi hai chấp ngã và pháp. 2. Sự tướng khổ, do ba khổ tướng. 3. Hòa hiệp khổ, vì sự kết hợp với đặc tính khổ.

 c. Không.- Không có ba: 1. Vô tính không, vì tính thể không thực hữu. 2. Dị tính không, vì khác biệt với tự tính bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tính không, vì là tự tính được hiển thị bởi hai Không.

d. Vô ngã.- Vô ngã có ba: 1. Vô tướng vô ngã, vì ngã không có tướng. 2. Dị tướng vô ngã, vì khác biệt với tướng của ngã bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tướng vô ngã, tự tướng được hiển thị bằng vô ngã.

Có thể tạm vay mượn một đoạn mở đầu của Tâm kinh Bát-nhã để giải thích về sự chiêm nghiệm này: “Bồ-tát Ārya-Avalokitésvara trong khi thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn (skandha); và vị ấy thấy chúng là Không trong tự tính”.

Những ai thực hành được như vậy gọi là chiêm nghiệmquán sát chân chánh về năm thủ uẩn, sự quán sát đó nếu dùng Trái tim Bát-nhã song vận với Tình yêu phổ quát và khế hợp với “Tính Không”, thì đó chính là con đường Trung đạo: “độ nhất thiết khổ ách” vậy. 

Thiền viên Thiện Thệ,
Vô trụ xứ am, an cư Đinh Dậu
Phước Nguyên



[1] Quảng nuẩn luận, tr.0850c19.

[2] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0005a11tt.

[3] Tì-bà-sa 79, tr. 407c09. Cf. Tạp 3, Đại 2, tr. 19a; Pāli, S.iii, tr.25ff.

[4] Sphuṭārthā: pracchedārtho vā avadhyartha

[5] Kośa i.k.20ab, (T29n1558, tr. 0004c13): 聚生門種族, 是蘊處界義.

[6] Pāli, S.iii., tr.105.

[7] Tì-bà-sa 74, tr.383c16.

[8] a. Skandhārtha, Gadjin M. Nagao: Madhyāntavibhāga-bhāṣya, Tokyo 1964, p.45.

[9] Quyển Trung, Đại 31, tr. 0470b07.

[10] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0002a22.

*Skt. ye sāsravā upādānaskandhās te, T29n1558, ibid.: 有漏名取蘊; T29n1559, tr. 0162c20: 有流名取陰.

[11] Rūpayati, Dhātupātha xxvi, 125.

[12] Lup, Dhātupātha xxvi, 125.

[13] Pāli, Samyutta iii, tr. 86.

** Skt. rūpaṃ pañcendriyāṇy arthāḥ pañcāvijñaptir eva ca. T29n1558, tr. 0002b07: 色者唯五根, 五境及無表.

[14] T29n1558, tr. 0002b08-b11.

[15] Cảnh, Skt. artha, ý nghĩa, sự kiện, tài sản, mục đích, sự vật…

[16] Pháp uẩn 11, tr. 507. Cf. Tạp A-hàm 37, T02n0099, tr. 0267a02.

[17] Duyên sinh luận, T32n1652, tr. 0483b18.

[18] Tạp A-hàm, kinh số 1, bản Việt, Đức Thắng và TT. Tuệ Sỹ, tr. 23-24.

[19] Dẫn theo Thành duy thức luận, chương viii, TT.Tuệ Sỹ, tr. 638-639.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4036)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4929)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6516)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3895)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3998)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3690)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3450)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3829)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3746)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3828)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3776)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4699)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3735)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4081)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4503)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4856)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4082)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4732)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5574)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3539)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3950)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4506)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5182)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4649)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4446)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4199)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4399)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7095)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5105)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4900)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5519)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4595)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4785)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5369)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5691)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4264)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4574)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4615)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3240)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5166)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2866)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant