Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

06 Tháng Bảy 201705:04(Xem: 7081)
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn
Tổng Luận: Năm Thủ Uẩn

Phước Nguyên

Tương Ưng Và An Trụ

I/ĐỊNH NGHĨA

I.1.Định nghĩa uẩn

Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn[1].

Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm: Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi (saṃskṛta).

Từ skandha, Hán dịch là uẩn với ý nghĩa: tích tập. Theo A-tì-đạt ma Câu-xá luận[2], chữ ‘uẩn’ có ba ý nghĩa:

-Hòa hợp tụ: Nhiều yếu tố tích nhóm một chỗ.

-Kiên: Kiên là vai. Vai có thể mang gánh nặng (kāryabhārodvahana) việc phải làm, “chúng sinh mang gánh nặng của uẩn mà đi qua những lối hiểm nghèo của sinh tử[3].

-Chia đoạn: cái khả phân (praccheda), bộ phận, phần được chia cắt. Yaśomitra nói: “Cái khả phân, là cái có hạn lượng, có giới hạn, có hạn kỳ[4].

Phẩm Phân biệt giới của luận Câu-xá cũng giải thích:

rāśyāyadvāragotrārthāḥ skandhāyatanadhātavaḥ/”[5]:

“Uẩn, xứ và giới,

có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc.”

Như vậy, ở đây chữ ‘skandha: khối, tích tập, chứa nhóm v.v..

Chúng ta có thể xem kinh Tạp A-hàm thuộc Đại Chánh Tân Tu, trang 15a, giải thích tường tận về sắc uẩn.

Hoặc chúng ta có thể đọc lại đoạn kinh văn Pāli tương đương:

Yaṃ kiñci bhikkhu rūpaṃ atītānāgatapaccuppannam ajhattaṃ vā bahiddhā vā oḷālikaṃ vā sukhumaṃ vā hiṇaṃ vā paṇitaṃ vā yaṃ dūre santike vā[6].

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoăc thô, hoặc vi tế, hoặc thấp kém, hoặc vi diệu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả được tổng hợp làm một và gọi đó là sắc uẩn”.

A-tỳ-đạt-ma Đại Tì-bà-sa luận, giải thích uẩn có bốn nghĩa: “Uẩn có nghĩa là tụ ; hiệp ; tích 積; lược 略.[7]

Vì từ Sanskrit ở đây là rāśi, với ý nghĩa là: đống, tụ, tích tụ…

Trong Madhyāntavibhāga-bhāṣya[8], có bài tụng về nghĩa của uẩn: “anekatvābhisaṃkṣepaparicchedārtha āditaḥ”, mà Biện trung biên luận chữ Hán dịch là: “非一及總略, 分段義名蘊: phi nhất cùng tổng lược/phân đoạn là nghĩa uẩn” [9]. Theo đây, uẩn có ba nghĩa:

-Phi nhất (anekatva): không phải một yếu tố.

-Tổng lược (abhisaṃkṣepa): tất cả gom thành một khối.

-Phân đoạn (pariccheda): phân nhóm, tùy theo đặc tính khác nhau của chúng.

Từ skandha, còn được dịch là Ấm 陰, với ý nghĩache đậy, đôi khi skandha còn được dịch là Chúng 眾, hoặc cũng dịch là Tụ 聚 v.v..

I.2.Thủ uẩn

“Thủ uẩn 取蘊”, Sanskrit: upādānaskandhā, cũng gọi là thủ ấm 取陰. Câu-xá luận định nghĩa:

 “/8a/ Hữu lậuthủ uẩn...*

 Ở đây, nó được xác định như thế nào? Các thủ uẩn đều được xác định là uẩn.

Nhưng cũng có các uẩn mà không phải thủ uẩn. Đó là các hành vô lậu. Trong đây, các thủ chính là các phiền não.

Hoặc uẩn từ thủ phát sinh, nên gọi là thủ uẩn. Như nói: lửa sinh ra từ trấu, từ rơm nên gọi là lửa trấu, lửa rơm.

Hoặc uẩn lệ thuộc thủ nên nói là thủ uẩn. Như bề tôi trực thuộc Vua nên nói là bề tôi của Vua (Vương thần).

Hoặc uẩn sinh thủ nên nói là thủ uẩn. Như cây sinh ra hoa, quả nên nói là cây hoa, cây ăn trái.”[10]

Như vậy, chữ ‘thủ’ trong năm thủ uẩn, đồng nghĩa với “thủ (upādāna)” trong 12 chi duyên khởi, phân tích thành động từ: upā-√dā, bám chặt, vin vào, mà chấp làm tự ngã.

A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận (trang 511) định nghĩa: Thủ là giai đoạn tăng trưởng mãnh liệt của Khát ái.”

Vậy thủ ở đây được hiểu là bám chặt vào bất cứ cái gì mà quá trình Khát ái đã mãnh liệt săn đuổi. Nên ngài Vasubandhu nói Thủ tức là phiền não là do nghĩa này.

II/PHÂN TÍCH NĂM UẨN

1.Sắc uẩn (Rūpa-skandha)

Chữ sắc 色, Sanskrit: rūpa: khối vật chất, có hai động từ căn: 1/√rūp: tạo hình, khung đỡ;[11] 2/ √rup: đau đớn, vỡ tan[12]

Có thể đọc lại đoạn kinh sau để thấy ý nghĩa sắc uẩn:

Kiñca bhikkhave rūpaṃ vadetha. ruppatīti kho bhikkhave tasmā rūpan ti vuccati kena ruppati. sītena[13]

“Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Nó băng hoại, này các Tỷ-kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị băng hoại bởi cái gì? Bởi đá, v.v…” .

Theo ngữ nguyên này, chữ rūpa, do động từ rump [lump]: tan vỡ. Ngài Sthiramati trong Quảng nuẩn luận định nghĩa:

Sắc uẩn là gì? Đó là bốn đại chủng và những gì được dồn lại từ bốn đại chủng (đại chủng sở tạo)”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá:

Sắc uẩn là gì?

(9a-b) Sắc chỉ là năm căn       

Năm cảnh và vô biểu**

Giải thích rằng: Năm căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt cănthân căn. Năm cảnh: tức cảnh giới của năm căn, nhãn . . .; đó là sắc, thanh, hương, vị và xúc. Vô biểu: là vô biểu sắc. Chỉ căn cứ vào số lượng này để thành lập tên gọi sắc uẩn.”[14]

*Giải thích thuật ngữ:

Sắc, tức khối vật chất được kết cấu, tạo hình lại theo nguyên lý không bền vững cho nên gọi là sắc uẩn.

Năm căn, chữ căn tiếng Sanskrit là indriya, tức bộ máy hoạt động. Theo Vasubandhu: căn là thế lực ưu việt khiến phát triển; phân biệt với ‘căn’ mà Sanskrit viết là mūla: rễ cây.

Định nghĩa bởi luận Kośa ii: kaḥ punar indriyārthaḥ idi paramiśvarye. tasya indantīti indriyāṇi. ata ādhipatyārtha indriyārthaḥ. “Căn là gì? Do động từ căn √id (= ind: đốt cháy) có nghĩa là ưu thế và chủ động. Chúng nó đốt cháy, do đó chúng nó là căn”. Căn như vậy có nghĩa là sự chi phối.

Theo bản Hán dịch Câu-xá luận 3, trang 13b12, Huyền Tráng dịch: 最勝自在光顯名根由此總成根增上義. Căn, theo đó, có ba nghĩa: tối thắng, tự tại, tăng thượng.

Năm cảnh[15], năm đối tượng của năm căn, tức sắc, thanh, hương, vị và xúc. Chữ “cảnh”: đối tượng, cũng gọi là “trần”.

Vô biểu, tuy lấy sắc nghiệp làm tính như hữu biểu, nhưng nó không hiện bày ra ngoài khiến cho người ta nhìn thấy nên nói là vô biểu. Tóm lại, vô biểu là sắc hoặc thiện, hoặc bất thiện sinh ra từ biểu nghiệp, hay từ định.

2. Thọ uẩn (Vedanā-skandha)

Định nghĩa bởi luận Kośa, i. 14: vedanā’ nubhavaḥ, thọ là sự cảm nghiệm (Thọ lãnh nạp tùy xúc 受領納隨觸).

Định nghĩa này cũng được Sthiramati đề cập: vedanā anubhavasvabhāvā, thọ, có tự thể là cảm nghiệm.

Đoạn văn tương đương cũng tìm thấy trong văn hệ Pāli: “vedayatī‟ti kho bhikkhave tasmā vedanā ti” nó cảm nhận, do đó nó được nói là thọ.

Ngài Sthiramati định nghĩa trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận (trang 0851b15): “Thọ uẩn là gì? Thọ là sự cảm nhận của thức. Thọ có ba loại: lạc thọ, khổ thọ và thọ không lạc không khổ”.

-Thuận chánh lý 2 (trang 338c26): Thọ có hai, 1. chấp thủ thọ, tất cả tâm và tâm sở đều cảm nghiệm cảnh sở duyên riêng biệt của nó; 2. tự tính thọ, sự cảm nghiệm tùy theo xúc, là đặc tính riêng biệt của thọ.

Theo luận Câu-xá, thọ uẩn có ba loại: lạc, khổ, bất khổ bất lạc. Lại nữa, thọ được chia thành sáu loại cảm nhận của thân (lục thọ thân) - cảm nhận sinh ra do nhãn thức tiếp xúc với sắc trần; cho đến cảm nhận sinh ra do ý thức tiếp xúc với pháp trần.

3. Tưởng uẩn (saṃjñā-skandha):

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b20 định nghĩa: “Tưởng uẩn là gì? Là tác dụng tâm lý nắm bắt thật nhiều các tướng trạng cảnh giới, nó làm tăng thêm sức mạnh nắm bắt”.

Ngài Vasubandhu giải thích trong luận Câu-xá (k.14cd): “saṃjñā nimittodgrahaṇātmikā, tự thể của tưởng là nắm bắt tín hiệu” (tướng thủ tượng vi thể 想取像為體).

Kinh tạng Pāli cũng định nghĩa tương đương: sañjānātī ti kho bhikkhave tasma saññā ti vuccati, nó tri giác (tri nhận), do đó nó được nói là tưởng.”

Tóm lại, Tưởng uẩn lấy sự chấp thủ ảnh tượng làm thể, tức là chấp thủ các tướng xanh vàng, dài ngắn, nam nữ, oán thân, khổ vui v.v... Tưởng cũng chia thành sáu loại tưởng thân, y cứ theo cách nói của thọ để hiểu.

4. Hành uẩn (saṃskāra-skandha):

Hành tức ý chí, cái động lực thúc đẩy tạo nghiệp.

Tiếng Sanskrit gọi là saṃskāra, có rất nhiều nghĩa.

Nếu nó đi từ động từ căn sa-√skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau.

Nhưng nếu nó đi từ động từ căn sas-√kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác động liên kết.

Theo các nhà Phật học A-tỳ-đàm thì hành động của thân và ngữ hoàn toàn được chỉ đạo hay thúc đẩy bởi Tư hay Ý chí (cetanā).

Ngài Sthiramati trong Đại thừa Quảng ngũ uẩn luận, trang 0851b22, định nghĩa: “Hành uẩn là gì? Trừ thọ uẩn, tưởng uẩn ra, những tâm pháptâm bất tương ưng hành còn lại là hành uẩn.”

Hành uẩn giải thích theo kinh tạng Pāli:

saṅkhataṃ abhisaṅkharontī‟ti kho bhikkhavve saṅkhārā‟ ti vuccati.

“Chúng tác thành pháp hữu vi, do đó chúng được nói là các hành”.

Ngài Vasubandhu giảng luận rõ:

Ngoài (các hành thuộc) sắc, thọ, tưởng và thức, tất cả các hành còn lại gọi là hành uẩn… hành là tạo tác, tư là tự thể của tạo tác (nghiệp); nó (tư) có lực tạo tác mạnh mẽ cho nên gọi là tối thắng. Do vậy, đức Phật dạy: nếu có khả năng tạo tác các pháp hữu lậu, hữu vi, gọi đó là hành thủ uẩn ... Nếu không như vậy, các tâm sở khác và các bất tương ưng hành pháp không nhiếp thuộc vào uẩn… Cho nên, ngoài bốn uẩn, các pháp hữu vi còn lại đều nhiếp thuộc hành uẩn.

Vậy thì Hành không phải gì xa lạ, mà chính là Ý chí, hay động lực thúc đẩy để tạo ra nghiệp.

5. Thức uẩn (vijñāna-skandha)

Thức tiếng Sanskrit gọi là vijñāna: sự nhận thức, thông tin.

Định nghĩa thức uẩn theo luận Câu-xá 1: “vijñānaṃ prati vijñaptiḥ, Thức là sự nhận thức từng đối tượng cá biệt” (Thức vị các liễu biệt 識謂各了別).

Mỗi thức đối với từng đối tượng riêng của nó thủ đắc tổng tướng cho nên gọi là thức uẩn. Lại nữa, thức uẩn còn chia thành sáu loại thức thân: nhãn thức thân cho đến ý thức thân.

Định nghĩa theo Kinh tạng Pāli: vijānātī‟ ti kho bhikkhave viññānan‟ ti vuccati, nó liễu biệt, do đó nó được gọi là thức.

Vậy thức uẩn ở đây chỉ cho sáu thức, mà thể tính của nó là sự tri nhận hay thông tri cá biệt các đối tượng.


 

III.NGUYÊN LÝ DUYÊN KHỞI: THỨC - DANH SẮC

Khi giải thích mười hai chi duyên khởi, đức Phật nêu rõ định thức: “Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Thức”, nghĩa là: “Do duyên là Thức mà có Danh sắc, do duyên là Danh sắc mà có Thức”.

Chữ Thức, tiếng Sanskrit là Vijñāpti, đi từ động từ căn vi-√jña có nghĩa là thông tin, cái thông tin, cũng hiểu là công cụ thông tin, hoặc cái dùng để nhận thức, chỉ cho thức thứ tám. Thức này luận sư kinh bộ gọi là “kết sinh thức (patisandhi-viññāna) nghĩa là thức kết nối giữa đời này và đời khác. Các nhà Phật học A-tì-đàm gọi là “Tối hậu tâm 最後心”[16]. Ngài Uất-lăng-Ca (Udlanka) gọi là “Sinh phần chuyển 生分轉”[17].

Yếu tố hình thành về tinh thần gọi là Danh (nama); yếu tố hình thành về vật chất gọi là Sắc (rūpa). Năm uẩn, chia theo danh sắc như sau: Danh (thọ, tưởng, hành, thức uẩn) – Sắc (sắc uẩn).

Vậy thì như đã nói, không thể tồn tại độc lập một thức A-lại-da, hay căn bản thức ngoài phần “Sắc”; ngược lại, nếu phần “Sắc uẩn hay Sắc” không có danh hay thức tồn tại trên nó để duy trì, thì sắc đó sẽ tan hoại và thối rã ngay lập tức.

Từ đó, chúng ta rút ra được kết luận, sau khi chết lập tức phải có năm uẩn mới, dù chấp nhậntrung hữu hay không có trung hữu, thì trung hữu đó cũng là một đời sống mới. Và tất cả đời sống đó, dù là từ lúc sinh ra cho đến lúc mạng chungtái sinh, thì đời sống đó chỉ là khối giả hợp giữa Danh và Sắc, trên nguyên lý duyên khởi và nguyên lý đó cũng chính là nguyên lý vô ngã, vì chúng là một khối kết hợp nhiều thành phần lại với nhau, bỏ riêng từng thứ ra thì không có gì gọi là tự ngã cả, không gì là ta hay sở hữu của ta.

Như vậy, chỉ khi nào vượt quahai loại hình sanh tử” thể nghiệm vô thượng Niết-bàn, khi đó mới có sự an lạc tuyệt đối, vượt qua mọi giả hợp của thế gian.

IV.KẾT LUẬN: CHIÊM NGHIỆMTHỰC HÀNH

Thực hành theo sự quán sát chân chánh, tức sẽ phát sinh được chánh tư duy về năm thủ uẩn, sự quán sát đó được dạy rõ trong kinh Tạp A-hàm, kinh số 1-8, thuộc thiên Tương ưng năm uẩn:

“Quán sát sắc là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.

Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sinh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát”.

Kinh cũng nói: “Như vậy, nếu muốn tự chứng tâm giải thoát này thì có thể tự chứng, biết rằng: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong và tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.’[18]đức Phật kết luận: “Cũng như quán sát vô thường, quán sát khổ, không, phi ngã cũng vậy.” Vậy thì, căn cứ trên kinh tạngluận tạng chúng ta có thể tổng quát nguyên lý năm thủ uẩn dựa trên vô thường-khổ-không-vô ngã như sau[19]:

a. Vô thường:- Bốn hành tướng trong khổ đế, vô thường có ba: 1. Vô tính vô thường, vì tính thể vĩnh viễn không tồn tại. 2. Khởi tận vô thường, vì có sinh và có diệt. 3. Cấu tịnh vô thường, vì chuyển biến trạng thái.

 b. Khổ.- Khổ có ba: 1. Sở thủ khổ, vì bị chấp thủ bởi hai chấp ngã và pháp. 2. Sự tướng khổ, do ba khổ tướng. 3. Hòa hiệp khổ, vì sự kết hợp với đặc tính khổ.

 c. Không.- Không có ba: 1. Vô tính không, vì tính thể không thực hữu. 2. Dị tính không, vì khác biệt với tự tính bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tính không, vì là tự tính được hiển thị bởi hai Không.

d. Vô ngã.- Vô ngã có ba: 1. Vô tướng vô ngã, vì ngã không có tướng. 2. Dị tướng vô ngã, vì khác biệt với tướng của ngã bị nhận thức lệch lạc. 3. Tự tướng vô ngã, tự tướng được hiển thị bằng vô ngã.

Có thể tạm vay mượn một đoạn mở đầu của Tâm kinh Bát-nhã để giải thích về sự chiêm nghiệm này: “Bồ-tát Ārya-Avalokitésvara trong khi thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn (skandha); và vị ấy thấy chúng là Không trong tự tính”.

Những ai thực hành được như vậy gọi là chiêm nghiệmquán sát chân chánh về năm thủ uẩn, sự quán sát đó nếu dùng Trái tim Bát-nhã song vận với Tình yêu phổ quát và khế hợp với “Tính Không”, thì đó chính là con đường Trung đạo: “độ nhất thiết khổ ách” vậy. 

Thiền viên Thiện Thệ,
Vô trụ xứ am, an cư Đinh Dậu
Phước Nguyên



[1] Quảng nuẩn luận, tr.0850c19.

[2] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0005a11tt.

[3] Tì-bà-sa 79, tr. 407c09. Cf. Tạp 3, Đại 2, tr. 19a; Pāli, S.iii, tr.25ff.

[4] Sphuṭārthā: pracchedārtho vā avadhyartha

[5] Kośa i.k.20ab, (T29n1558, tr. 0004c13): 聚生門種族, 是蘊處界義.

[6] Pāli, S.iii., tr.105.

[7] Tì-bà-sa 74, tr.383c16.

[8] a. Skandhārtha, Gadjin M. Nagao: Madhyāntavibhāga-bhāṣya, Tokyo 1964, p.45.

[9] Quyển Trung, Đại 31, tr. 0470b07.

[10] Câu-xá 1, T29n1558, tr. 0002a22.

*Skt. ye sāsravā upādānaskandhās te, T29n1558, ibid.: 有漏名取蘊; T29n1559, tr. 0162c20: 有流名取陰.

[11] Rūpayati, Dhātupātha xxvi, 125.

[12] Lup, Dhātupātha xxvi, 125.

[13] Pāli, Samyutta iii, tr. 86.

** Skt. rūpaṃ pañcendriyāṇy arthāḥ pañcāvijñaptir eva ca. T29n1558, tr. 0002b07: 色者唯五根, 五境及無表.

[14] T29n1558, tr. 0002b08-b11.

[15] Cảnh, Skt. artha, ý nghĩa, sự kiện, tài sản, mục đích, sự vật…

[16] Pháp uẩn 11, tr. 507. Cf. Tạp A-hàm 37, T02n0099, tr. 0267a02.

[17] Duyên sinh luận, T32n1652, tr. 0483b18.

[18] Tạp A-hàm, kinh số 1, bản Việt, Đức Thắng và TT. Tuệ Sỹ, tr. 23-24.

[19] Dẫn theo Thành duy thức luận, chương viii, TT.Tuệ Sỹ, tr. 638-639.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 47)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1390)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant