Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Giáo Cho Người Vô Thần

16 Tháng Bảy 201708:07(Xem: 4575)
Phật Giáo Cho Người Vô Thần

Phật Giáo Cho Người Vô Thần

Nguyên Giác


Thống kê luôn luôn có một mức độ không chính xác. Xem các thống kê thời kỳ sắp bầu cử Hoa Kỳ  tháng 11/2016 là biết: sai nhiều hơn là đúng. Nhưng đó là thống kê chính trị. Hy vọng, thống kê về tôn giáo tại Hoa Kỳ gần với hiện thực hơn, tuy rằng độ sai ít, có thể vì những người thống kê không tiếp cận đầy đủ các sắc dân thiểu số.

Một điểm nhận thấy: dân Hoa Kỳ ngày càng xa rời các định chế tôn giáo. Tuy xa chậm, nhưng xa chắc.

Một bản thống kê của Pew Research phổ biến ngày 3 tháng 11/2015 cho biết rằng, tính chung tất cả, có 36% dân Mỹ nói rằng họ đi dự lễ tôn giáo ít nhất một lần mỗi tuần, như thế là giảm từ 39% trong năm 2007.

Suy giảm như thế là vì tăng số người thành niên Hoa Kỳ nói rằng họ hiếm khi, hoặc không bao giờ dự lễ tôn giáo (từ 27% trong năm 2007 tăng tới 30% trong năm 2014).

Tuy nhiên, ngồi nhà không có nghĩa là không tu học. Bản tin Pew ngày 3 tháng 11/2015 nói rằng có 4/10 dân Mỹ nói họ thiền tập/cầu nguyện (theo các hình thức tôn giáo riêng của họ) ít nhất một tuần một lần. Như thế, con số 4/10 đông hơn con số 36% đi dự lễ tôn giáo.

Riêng về Phật giáo, thống kê vừa dẫn cho biết 2/3 Phật tử Hoa Kỳ (66%) nói rằng họ thiền tập ít nhất hàng tuần.

Một điểm đặc biệt của xã hội Hoa Kỳ: có 1/5 người vô thần/atheist (19%), với ¼ người chủ nghĩa bất khả tri/agnostics (24%) và 28% những người nói rằng họ chẳng theo tôn giáo nào cụ thể/“nothing in parcular” cũng nói rằng họ thiền tập ít nhất một lần một tuần. Những người trả lời bản thăm dò nói họ thiền tập thường xuyên có thể có hay có thể không mang một ý nghĩa tôn giáo; nhiều người thiền tập vì các lý do khác hơn là tôn giáo hay tâm linh (thi dụ, thiền tậpsức khỏe).

Theo báo The Blaze ngày 12 tháng 7/2017, cuộc nghiên cứu mới của The Barna Group, một tổ chức truyền giáo Ky Tô bản doanh ở Ventura, California, đã liệt kê 10 thành phố Hoa Kỳ “hậu Ky tô” – tức là không đức tin vào Ky tô giáo, cho thấy nơi kém đức tin Ky Tô nhất ở Hoa Kỳ là: Portland-Auburn (tiểu bang Maine), nơi 57% thuộc tôn giáo khác hoặc vô thần.

Riêng tại California, đứng đầu về kém đức tin Ky tô giáo là khu vực San Francisco–Oakland–San Jose, Calif. (50% thuộc tôn giáo khác hoặc vô thần) – và 60% lại nói rằng họ “không đi lễ nhà thờ trong vòng 6 tháng qua.” Hiện tượng này dễ hiểu, vì khu vực Bắc Cali đông người gốc Á, và là trung tâm điện tử thế giới, nơi tập trung giới trẻ khoa học kỹ thuật, và ngay cả khi công ty Google dạy thiền tập trong công ty cũng hoàn toàn không mang ý nghĩa tôn giáo.

Viện Barna kết luận cuộc nghiên cứu rằng vai trò tôn giáo trong đời sống xã hội co cụm dần, và nhà thờ không còn đóng vai trò thẩm quyền văn hóa như những thập niên xa xưa.

Báo The Blaze cũng ghi rằng một cuộc khảo sát của Viện Gallup từ tháng 12/2016 cho thấy 21% dân Mỹ hiện nay không có căn cước tôn giáo – tăng từ 15% những người nói như thế hồi năm 2008. Thời thập niên 1940s và 1950s, chỉ 2-3% dân Hoa Kỳ không nói về căn cước tôn giáo chính thức.

Như thế, cũng co cụm số người là thành viên chính thức của nhà thờ. Barna nói rằng hồi năm 1973, có 73% dân Mỹ nói rằng họ là thành viên của một nhà thờ, trong khi chỉ 56% nói như thế hồi năm 2016.

Có một điều có thể suy đoán được: số lượng dân Mỹ ngồi thiền tại nhà đông hơn, hẳn là vì phương pháp Thiền tỉnh thức (Mindfulness meditation) đang được các bác sĩnhà giáo Hoa Kỳ khuyến khích áp dụng để chữa bệnh, để giữ sức khỏe, để giữ lòng hạnh phúc hơn. Nhằm áp dụng cho mọi thành phần xã hội như thế, ý nghĩa Phật giáo trong Thiền pháp này đã được gỡ bỏ để không gây tranh cãi, và để phù hợp Hiến pháp Hoa Kỳ - đặc biệt là khi dạy Thiền trong quân đội hay trong trường học.

Melvin McLeod, Chủ bút tạp chí Lion's Roar, trong ấn bản ngày 6 tháng 7/2017, có một bài viết nhắm vào những mảng dân số xa lìa tôn giáo đó. Bải viết nhan đề “Are You Spiritual But Not Religious? 10 Reasons Why Buddhism Will Enrich Your Path” (Bạn có quan tâm về tâm linh, nhưng không tôn giáo? Có 10 lý do Phật giáo sẽ làm bạn phong phú hơn).

Mảng dân số “không tôn giáo gì hết” chiếm 1/5 dân số thành niên Hoa Kỳ, trong đó có 72% là thế hệ trẻ - tức là Generation Y (còn gọi là thế hệ Millennials) định nghĩa là những người sinh sau thế hệ Generation X. Định nghĩa năm sinh của thế hệ Y không chính xác, ước chừng là họ có năm sinh vào đầu thập niên 1980s tới đầu thập niên 2000s.

Những người trẻ đó là tương lai Hoa Kỳ. Là thế hệ con em của những người đọc được tiếng Việt sành sõi tại Hoa Kỳ hiện nay. Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.

Melvin McLeod giải thích với mảng dân số xa lìa tôn giáo nhưng có quan tâm về tâm linh rằng, Phật giáo thích nghi tuyệt vời cho họ với 10 lý do:

1. Không hể có Thượng Đế Phật Giáo. Phật Giáo nói rằng có cõi chư thiên, nhưng nói rõ rằng không hề có Đấng Sáng Tạo

2. Phật Giáo nói không có chuyện cứu độ. Phật Giáo nói rằng có Phật Tánh, nhưng nói rõ rằng tất cả là thiện tâm nơi tự tâm mỗi người. Chỉ cần bạn nhìn thẳng vào tâm, lặng lẽ, buông xả mọi thứ vướng bận, và bản tâm thanh tịnh sẽ hiển lộ.

3. Vấn đề là khổ, là bất như ý. Câu trả lời, tức là đáp số, là tỉnh thức, là giác ngộ.

4. Phương pháp không có gì xa, chi là nơi tự tâm của bạn; nhìn kỹ sẽ thấy nơi tâm bạn đã tự lặng lẽ, tự tỉnh thức, tự hoàn hảo.

5. Không ai có thể làm thay bạn. Bạn phải tự làm việc với tâm của bạn. Có thiện tri thức, có thầy, có huynh đệ, có bạn hữu… nhưng cốt tủy là nơi bạn.

6. Có một thực tại tâm linh, một thực tại vô sắc (There is a spiritual, nonmaterial reality). Chỗ này, bạn nên tự khám phá trong tâm bạn.

7. Nhưng bạn không phải làm bất cứ chuyện gì về đức tin. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Phật Giáo phải từ bỏ những tin tưởng nào mà khoa học chứng minh không có.

8. Phật Giáo cung cấp nhiều phương tiện thiện xảo cho nhiều nhu cầu, thành phần khác nhau.

9. Phật Giáo cởi mở và không định chế. Cộng đồng Phật Giáo tại Hoa Kỳ đa dạng, chống kỷ thị chủng tộctính phái (hiểu là cởi mở với cả đồng tính).

10. Và Phật Giáo hiệu quả (it works).

Như thế, khi bạn gặp thế hệ trẻ tình cờ rơi vào mảng dân số chủ trương vô thần, hay chủ trương bất khả  tri, bạn có thể hy vọng rằng các em có thể sẽ tiếp cận Phật Giáo theo cách khác hơn bạn. Và hãy nói về 10 thích nghi tuyệt vời trên.

Tuy nhiên, có thể vì các em sẽ không thể nhớ hết những thích nghi tuyệt vời đó, và cũng không chắc sẽ kiên nhẫn để nghe bậc trưởng thượng nói dài dòng... Trường hợp như thế, bạn chỉ cần nói một điều cốt tủy trong Phật giáo thôi: rằng thực sự không hề có một pháp nào để làm.

Để hấp dẫn các em, bạn nên nói theo hình thức một truyện kể... May quá, đã có nhà sư Ajahn Brahm (sinh tại Anh năm 1951, và tu học theo truyền thống Thái Lan, hiện là viện chủ một Tu Viện ở Úc và thuyết pháp ở nhiều quốc gia khác) kể về cốt tuỷ này trên YouTube.

Chuyện như sau, trích:

“Một Phật tử điện thoại tới tu viện, xin gặp Thiền sư: Cung thỉnh Thầy  tới ban phép lành cho căn nhà mới của con.

Nhà sư đáp: Rất tiếc, Thầy đang bận.

Phật tử hỏi: Thầy đang bận làm gì, con giúp được không?

Nhà sư đáp: Thầy không đang làm gì cả, và không làm bất kỳ một pháp nào chính là pháp cốt tủy của một nhà sư, và con không giúp gì được thầy đâu.

Do vậy, sáng hôm sau, Phật tử điện thoại tiếp: Thầy ơi, con mời Thầy tới ban phước cho căn nhà con.

Nhà sư đáp: Rất tiếc, Thầy đang bận.

Phật tử hỏi: Thầy đang bận gì vậy?

Nhà sư đáp: Thầy không đang làm gì cả.

Phật tử hỏi: Nhưng đó là Thầy đã làm hôm qua như thế.

Nhà sư đáp: Đúng vậy, Thầy chưa xong mà...” (hết trích)

Như thế, từ 10 thích nghi tuyệt vời, bạn có thể nói với giới trẻ khoa học kỹ thuật rằng chỉ cần một thôi...

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1656)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1033)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1486)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1939)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1522)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1352)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1545)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1142)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1275)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1695)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1641)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2998)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1364)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1406)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1322)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1681)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1890)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1819)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2390)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1784)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2124)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2194)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2299)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1853)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1975)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1956)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2594)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1946)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1944)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1895)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2167)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2300)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1976)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2078)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1883)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1904)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2320)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3992)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2480)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3194)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2044)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1796)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2343)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3024)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2700)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant