Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Long ThọTính Không

18 Tháng Bảy 201704:58(Xem: 6824)
Long Thọ Và Tính Không

LONG THỌ TÍNH KHÔNG

Nguyên Tâm
Nguyễn Nam

Long Thọ Và Tính Không

          Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người. Tám đại tông môn Đại thừa từ Thiền đến Mật tông đều tôn xưng ngài Long Thọ là tổ, vì giáo pháp của ngài luôn luôn là cơ sở lập cước của các tông môn. Nhưng Phật tử Á Đông ngoài lòng thành kính rất ít người biết về Bồ tát Long Thọ, cũng vì kinh luận về Long Thọ không được phổ biến rộng rãi đến quần chúng. Từ thế kỷ hai mươi, khác với sự sùng mộ của giới trí thức Tây phương về tư tưởng Tính Không của Long Thọ, người được Tây phương coi là triết gia vĩ đại nhất của Phật giáo, thì chúng ta, những người Phật tử Việt Nam, vẫn tiếp tục biết rất ít về Long Thọ. Nhân dịp Giáo sư Vũ Thế Ngọc nói chuyện về Bồ Tát Long ThọTrung Quán tại Orange County (tổ chức chiều chủ nhật 30 tháng 7 năm 2017 lúc 2.30 PM tại Thiền Đường Tánh Không Quận Cam Nam Cali), chúng tôi xin đăng tải bài viết này của Tiến sĩ Tâm Nguyên Nguyễn Nam sau đây.

 

         Là một người làm việc ở Hoa Kỳ từ hơn nửa thế kỷ, những quyển sách những dòng chữ Việt từ Việt Nam gửi sang luôn là suối nguồn nuôi giữ tình tự quê hương trong tôi. Nhưng hôm nay cũng nhờ dòng nước này, cụ thể là nhờ đọc thông viết thạo tiếng Việt, đã cho phép tôi đọc được bộ sách của tác giả Vũ Thế Ngọc để tìm ra nhiều điều mà tôi vẫn canh cánh trong lòng về tư tưởng Long Thọ. Nghỉ hưu từ hơn mười năm nay, tôi hầu như chỉ đọc sách về triết đông. Không như phần đông các trí thức người Mỹ tìm đọc sách Phật giáo như một thời thượng, hoặc như một cách giải quyết các nhiễu nhương tinh thần của thời đại. Tôi là một sinh viên đến từ một quốc gia Phật giáo, trước khi đi học khoa học ở Hoa Kỳ vào năm 1966 tôi cũng đã từng theo học đại học văn khoa. Nhiều năm quay cuồng với khoa học vật lý, tôi vẫn thỉnh thoảng đọc sách Phật. Nhưng chỉ từ khi nghỉ hưu tôi mới có toàn thời gian chìm ngập trong rừng sách Phật, phần lớn là sách tiếng Anh và tiếng Pháp. Và cũng như phần lớn trí thức ngoại quốc tôi lập tức bị thu hút (và choáng ngợp) với các sách viết về Tính Không của Long Thọ. Học hỏi được rất nhiều từ các học giả uyên bác này, nhưng có đôi điều tôi vẫn chưa tự giải quyết được bằng tủ sách Anh và Pháp ngữ đó, kể cả nhiều lần dự thính một cách chăm chỉ các khóa Phật họcliên quan đến giáo pháp Trung Quánchính đại học tôi vừa nghỉ hưu, một đại học có tiếng về phân khoa Phật học. Một cựu giáo sư đồng nghiệp giới thiệu tôi thử vào Long Thọ qua kinh luận Hán ngữ, vì theo ông là các học giả Tây phương hiện nghiên cứu về Long Thọ chỉ thường nghiên cứu từ các tài liệu Phạn văn và nhất là Tạng văn. Họ có thể không thông thạo Hoa ngữ và cũng vừa coi nhẹ mảng nghiên cứu về Long Thọ trong Hoa văn. Nhưng chính một bạn đồng nghiệp khác, gốc người Hoa, lại nói với tôi là tư tưởng căn bản của Phật giáo Trung Quốc dù cũng khởi từ Long Thọ nhưng quả thực trong Hoa ngữ còn thiếu các nghiên cứu cơ bản về Long Thọ, nên khuyên tôi tìm qua ngõ Nhật ngữ. Không thông thạo Hoa ngữ lẫn Nhật ngữ, nên kết quả tôi chỉ tìm đọc được các bài viết và bản dịch qua Anh ngữ. Không hoàn toàn trở lại thủa khởi đầu, vì tôi cũng học hỏi được rất nhiều qua nguồn sách Anh ngữ dịch từ các tài liệu viết bằng Nhật ngữ và Hoa văn.

            Hôm nay, nhờ chữ Việt tôi có duyên được đọc quyển Triết Học Long Thọ với nội dung là toàn văn bản Mūlamadhyamaka-kārikā (Căn Bản Trung Quán Luận) gồm cả văn bản Sanskrit lẫn bản dịch Anh ngữ, và đặc biệt gồm với bản dịch Hoa văn của Cưu Ma La Thập vị dịch giả tài hoa cùng với sự luận giải của một nhà sư Ấn Độ rất thông thái có tên là “Thanh Mục” (tôi đã cố tìm hiểu nhưng chưa biết vị này ra sao). Nhờ bản dịch của Cưu Ma La Thập cùng các giải thích của Thanh Mục (lẽ dĩ nhiên qua các luận giảng uyên bác của Vũ Thế Ngọc) mà hầu như các thao thức của tôi hơn mười năm nay vì chỉ đọc được các bản dịch giảng trong các sách của Kenneth Inaka, David Kalupahana hay P. Vaidya, đã được giải tỏa – Đặc biệt là phần “Triết Học Long Thọ” là cả một tiểu luận rất quan trọng, dù rất cô đọng, giới thiệu một cách sâu sắc về thế giới triết lý tư tưởng của Long Thọ. Vì vậy tôi vội viết vài dòng chữ này giới thiệu sách Triết Học Long Thọ đến các bạn. Nhưng tôi cũng xin thêm, nếu chỉ đọc có bản dịch của Cưu Ma La Thập thì các bạn cũng sẽ gặp các thách thức như tôi, vốn chỉ đọc sách Anh ngữ.

            Tủ sách Long ThọTánh Không không chỉ có Trung Luận (Mūlamadhyamaka), mà cả bốn luận quan trọng của Long ThọHồi Tránh Luận (Vigrahavyāvartanī), Thất Thập Không Tính Luận (Śūnyatāsaptati) Thập Nhị Môn Luận đều đã đươc ấn hành. Hai quyển Hồi Tránh LuậnThất Thập Không Tính Luận là hai luận có tính luận lý rất sâu. Vị đồng nghiệp người Hoa thẳng thắn nói với tôi rằng não trạng người Hoa rất hiện thực nên họ rất giỏi về khoa học lịch sử nhưng không có cái sâu sắc tôn giáo của văn hóa Ấn Độ, nên họ từ lâu đã không tiêu hóa được hai đại luận này (Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận) của Long Thọ. Ông cười và chúc mừng tôi có bản Việt dịch của hai luận này. Tôi không muốn phê bình về nụ cười có thể có nhiều ý nghĩa của ông, nhưng vừa hãnh diện vừa nghi ngại cầm hai bản dịch giảng của Vũ Thế Ngọc trên tay mà tôi mới tìm được sau nhiều tháng tìm tòi - Không hiểu vì sao các sách này rất khó tìm so với các sách khác của ông - Sau khi đọc kỹ, tôi mới yên trí thở ra, vì học giả Vũ Thế Ngọc đã cẩn thận chú giải cả nguyên tác Phạn Tạng, mà còn có cả bản dịch Anh ngữ và Hán ngữ (Hồi Tránh Luận, có bản dịch Hoa ngữ từ năm 541). Có thể người xấu bụng vội nghĩ rằng Vũ Thế Ngọc cố ý “lòe chữ” nhưng chính tôi, một người từ nhiều năm tìm học về Long Thọ thì hiểu rõ. Là người độc lập lại tiên phong dịch về các đại luận khó tiêu này ra Việt văn nên ông rất cẩn thận. Ông trình bầy như thế có lẽ để cố ý cho thấy “Long Thọ trong ngôn ngữ thế giới là như thế, và tôi, Vũ Thế Ngọc, thấy như thế này. Người đọc, người học, người phê bình hãy nhìn rõ cẩn thận cả hai ba chiều như thế, trước khi lên tiếng.” Có lẽ học giả trên thế giới không cần sự cẩn trọng này, nhưng dường như riêng ở Việt Nam chúng ta, vì nhiều lý do, vẫn thường có các phê phán vội vã, cố tình

            Riêng luận Thập Nhị Môn Luận, dù rất phổ biến ở Trung Hoa vì là luận cơ bản của Tam Luận Tông Trung Hoa, nhưng phần đông học giả tây phương không công nhận là của Long Thọ (dù cũng do Cưu Ma La Thập dịch) vì hai lý do chính đơn giản là không còn nguyên bản Sanskrit lẫn bản dịch Tạng ngữ. Trong dịch giải này, Vũ Thế Ngọc dịch giảng đã so sánh cẩn thận từng kệ, từng trang với ba luận cơ bản Trung Luận, Thất Thập Không Tính Luận Hồi Tránh Luận để đưa đến một kết luận vững trãi cho một nan đề tồn tại từ mưới ba thế kỷ trước về tác giả của luận này. Hơn nữa, một nửa sách Long Thọ Thập Nhị Môn Luận là phần dịch luận văn “Introduction to Nagarjuna”s Philosophy” cũng của Vũ Thế Ngọc viết trước đây. Luận văn này được cải biên thành “Nhập Môn Triết Học Tính Không”. Đúng như tên gọi, phần này giới thiệu 14 thuật ngữ Trung Quán, và các thuật ngữ này cũng là 14 khái niệm cơ bản dẫn vào triết học Tính Không. Và từ đây ông đã có ý định viết một tập sách nhỏ chung với Geshe J.J. Lai là “Bản Tra các Thuật Ngữ Trung Quán.” Tôi thiết nghĩ rằng giá được đọc phần này từ mười năm trước sẽ bớt tốn cho tôi biết bao thời gian quanh quẩn tìm đường đến môn triết học tính không này.

Tủ sách Long ThọTính Không không chỉ có giới thiệu luận của Long Thọ, mà như chương trình thì năm 2017 này sẽ ấn hành hai luận danh tiếng của Nguyệt Xứng viết về tư tưởng Long ThọNhập Trung Quán (Mādhyamakāvatāra) và Trung Quán Minh Cú Luận (Prasannapadā). Nguyệt Xứng (Chandrakīrti, thế kỷ thứ VII) là người được coi là giảng về Long Thọ thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Đại thừa. Nhưng trong hơn mười ba thế kỷ trong kho tàng kinh luận khổng lồ Đại Tạng Hán Ngữ hầu như chưa có luận nào của Nguyệt Xứng được dịch giảng ra Hoa ngữ. Hai bản dịch luận này của Nguyệt Xứng cũng là bản dịch giảng đầu tiên ra Việt ngữ.

Sau Nguyệt Xứng tủ sách Long Thọ còn giới thiệu quyển Nāgārjuna and the Quantum World. Sách có tựa Anh ngữ nhưng chắc sẽ có bản tiếng Việt vì in trong tủ sách này. Đây là một quyển sách cá nhân tôi rất mong đợi. Là một người học và dạy Vật lý cả đời, tôi đã từng say mê quyển The Tao of Physics của Fritjof Capra từ 1975. Nhưng về già đọc lại tôi rất thất vọng. Sách không phân biệt được triết lý tư tưởng cơ bản giữa Bà La Môn với Lão Trang hay Phật giáo. Nhưng đó không phải lỗi của Capra, ông chỉ nói về cái “Đạo” tổng quát của phương đông. Ông không viết về Phật giáo mà cũng không phải là học giả về Phật học. Nhưng Nāgārjuna and the Quantum World thì ít nhất như trong đề tựa mà lại được in trong tùng thư Long Thọ, chắc chắn sẽ phải có nội dung Phật học. Tôi cũng chưa biết Vũ Thế Ngọc sẽ viết gì về “Quantum” nhưng thấy các trang ông viết về Quantum Physics trong Triết Học Long Thọ và các chú thích ông viết về uncertainty principle, principle of superposition, asymmetries in times v.v. trong Long Thọ Thập Nhị Môn Luận đều là những chủ đề lớn trong hội thảo lớn “Symposium on the Foundations of Modern Physics” mà tôi từng tham dự. Cho nên chủ đề sách này cá nhân tôi rất mong chờ.

 Viết đến đây cá nhân tôi không khỏi cám ơn Giáo sư Vũ Thế Ngọc và các thân hữu của ông trong tủ sách Tính Không rất thầm lặng (rất khó tìm mua sách của tủ sách này). Trong thực tế đời sống ngày nay, quả thực công việc khai triển và quảng bá tư tưởng triết lý tính không của Long Thọ vô cùng cần thiết, nhưng quí vị có thấy trước những khó khăn hầu như tuyệt vọng trong hiện thực ngày nay?  Những người còn nghĩ đến phẩm chất cao quí của cuộc sống thì vừa hiếm, vừa cũng dễ bị chao đảo trước các phong trào quần chúng dưới các mỹ từ là “khế lý khế cơ” hay “ứng dụng” hoặc “nhập thế” của nhiều tổ chức. Nhưng có lẽ cũng như quí vị, tôi nghĩ rằng vẫn còn có những người còn thao thức về một minh triết trí tuệ giải thoát, cho nên tôi mạo muội viết vài lời giới thiệu về Tủ Sách Long ThọTính Không cho những người còn có quan tâm này.

Nguyên Tâm Nguyễn Nam.

 

Bài đọc thêm:
Bài học tóm tắt trung quán luận
Trung Luận – (Madhyamaka Sastra) (Thích Thiện Siêu)
Trung Luận (Thích nữ Chân Hiền)
Trung Luận (Thích Viên Lý)
Trung Quán Luận (Đại Sư Ấn Thận - Thích Nguyên Chân)
Trung Quán Luận (Cao Dao)
Tìm Hiểu Trung Luận (Hồng Dương)
Luận Giải Trung Luận, Tánh Khởi Và Duyên Khởi (Hồng Dương)
Đại Cương Về Triết Học Trung Quán (Thích Viên Lý)
Trung Luận - Bồ Tát Long Thọ (Thích Tâm Thiện)
Lịch Sử Tư TưởngTriết Học Tánh Không (Thích Tâm Thiện)
Trung Quán Luận Kệ Tụng (Thích Tịnh Nghiêm)
Tìm Hiểu Trung Luận Nhận Thức Luận Và Không Tánh Trung Quán Luận
Đập Vỡ Vỏ Hồ Đào (Thích Nhất Hạnh)
Trung Luận Và Hồi Tranh Luận - Bồ Tát Long Thọ (Đỗ Đình Đồng)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1613)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1528)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1479)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1059)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1450)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1387)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1351)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1682)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1891)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1407)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1405)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1971)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1534)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1366)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2824)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1356)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1395)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1699)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1649)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1609)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1453)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2616)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1594)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1392)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1410)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1593)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1529)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1420)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1394)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1491)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2170)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1525)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1472)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1588)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1813)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1502)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1363)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1640)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1380)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2342)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1927)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1654)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1725)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1596)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1921)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1647)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1699)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1554)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1514)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1305)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1229)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1504)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant