Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Môn Định Vô Tướng

18 Tháng Bảy 201708:06(Xem: 4342)
Pháp Môn Định Vô Tướng

Pháp Môn Định Vô Tướng

Nguyên Giác

 

Một thời, người học Phật đã quen nghĩ rằng Tổ Sư Long Thọ đã khai sơn ra hệ tư tưởng Bát Nhã, nổi bật là câu "Ly nhất thiết chư tướng tức danh chư Phật" trong Kinh Kim Cang. Thực ra, chính Đức Phật đã nói về pháp Định Vô Tướng rất nhiều lần trong Tạng Pali.

Tuy nhiên, bài này sẽ nói tới pháp thế gian trước, rồi mới bàn về pháp xuất thế gian sau. Vì chúng sanh ưa chấp tướng.

Có phải Chủ Tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc – vị lãnh đạo cao nhất của quốc gia đông dân nhất thế giới -- là một Phật Tử tàng hình? Nếu đúng như thế, hiển nhiên là một bất ngờ.

Có phải Thủ Tướng Narendra Modi của Ấn Độ -- vị lãnh đạo cao nhất của quốc gia đông dân thứ nhì thế giới – đã từng tự nhận là một Phật Tử? Cũng là một bất ngờ.

Dân số hai quốc gia này cộng lại là 36.4% trên tổng dân số thế giới. Hiện tượng rất lạ đã nhận thấy mấy năm vừa qua: chính phủ hai nước này kình nhau trên hầu hết các phương diện, nhưng lại hợp tác với nhau trong các lĩnh vực liên hệ tới Phật Giáo.

Điều có thể nhìn thấy rằng, cả ông Tập và ông Modi đều không phải là Phật Tử chính thống, vì hai ông không quy y, không thọ giới, không có pháp danh, không tụng kinh hay ngồi thiền hàng ngày (hay ít nhất, như chúng ta biết)… và hình như cũng không tin vào các giáo lý truyền thống. Nghĩa là, hai ông Tập và Modi có thể được gọi là một kiểu Phật Giáo thế gian, hay PG vô thần, hay PG thực dụng – tiếng Anh gọi chung nhóm này là Secular Buddhism, nghĩa là gỡ bỏ các niềm tin siêu hình. Nghĩa là, hầu hết những người trong nhóm này dùng Phật Giáo để tự làm an vui cho mình, ổn định cho xã hội, trên nguyên tắc.

Trước tiên để nói về ông Tập Cận Bình. Báo Hindustan Times ngày 4 tháng 2/2013, trong bản tin nhan đề “Tibet's conquest of China's Xi Jinping family” (Gia Đình Tập Cận Bình Thần Phục Tây Tạng)… Chỉ mới đọc nhan đề bài báo Ấn Độ này là đủ giựt mình.

Bản tin kể rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng trao tặng Phó Thủ Tướng TQ Tập Trọng Huân (cha của Tập Cận Bình) một đồng hồ, và ông cụ Tập đó đã mang nơi cổ tay nhiều năm. Điều ít người biết, theo báo này, là mẹ của Tập Cận Bình là cụ bà Qi Xin được mai táng với nghi thức đầy đủ của Phật Giáo Tây Tạng theo ước nguyện của cụ bà. Và vợ của Tập Cận Bình là phu nhân Bành Lệ Viên là một Phật Tử theo truyền thống PG Tây Tạng. Báo này nói rằng đó là các thông tin theo cuộc nghiên cứu của Richard Rigby, chuyên gia về Trung Hoa tại đại học Úc Australian National University và là một cựu phân tích gia của Sở Tình Báo Bí Mật Úc Châu (Australian Secret Intelligence Organisation).

Bà Bành Lệ Viên là một ca sĩ nổi tiếng, hiện mang quân hàm Thiếu Tướng trong lực lượng văn công quân đội TQ, không chỉ là một Phật Tử PG Tây Tạng mà còn là một người tu trì thuần thành trong truyền thống này, theo lời Rigby và cả học giả Claude Arpi.

Arpi nói: “Một trong các ca khúc của bà là về vẻ đẹp của Tây Tạng.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma thỉnh thoảng kể về tình thân hữu với Tập Trọng Huân, có lúc nhắc tới món quà đồng hồ Omega tặng ông cụ Tập khoảng năm 1954 hay 1955, trước khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và dân tộc Tây Tạng nổi dậy kháng chiến.

Arpi kể rằng khi ông anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma mở ra những cuộc thương thuyết bán chính thức với Đặng Tiểu Bình trong thập niên 1950s về đòi hỏi cho Tây Tạng tự trị,  cụ Tập Trọng Huân vẫn còn mang đồng hồ đó nơi tay.

Tuy nhiên, tình thân đó chỉ mang ý nghĩa “tiện lợi cho chính trị”… theo nhận định của Robert Barnett, học giả về Tây Tạngđại học Columbia University.

Bản thân Tập Cận Bình đã từng gọi Tây Tạnglợi ích cốt lõi của Trung Quốc, nghĩa là những chuyện khác, nếu có, sẽ chỉ là phụ.

Và rồi, dưới mắt ông Tập, Phật Giáo đã trở thành một phương tiện an dân, hộ quốc.

Bản tin Reuters ngày 29/9/2013 nói rằng các nguồn tin từ chính phủ TQ nói rằng Tập Cận Bình hy vọng rằng Phật Giáo, Lão GiáoKhổng Giáo có thể làm đầy khoảng trống đạo đức tại TQ, giúp làm từ thiện cho dân nghèo vô gia cư, người bệnh… trong khi cán bộ không thể cáng đáng hết mọi chuyện, vì chính sách một con sau nhiều thập niên đã làm dân số già và bệnh tăng vọt, chính sách kinh tế tư bản rừng rú làm giàu nghèo cách biệt và dân nghèo ngày càng đông hơn…

Nguồn tin đó nói rằng hồi tháng 2/2013, Tập đã gặp nhà sư Đài Loan nổi tiếngHòa thượng Hsing Yun – tại Bắc Kinh cùng với một phái đoàn. Hiếm lắm mới nghe chuyện lãnh đạo TQ gặp các các lãnh đạo tôn giáo. HT Hsing Yun nguyên bị cấm nhập cảng TQ đầu thập niên 1990s vì ngôi chùa tại Hoa Kỳ của vị sư này đã đón nhận tỵ nạn một cán bộ TQ cao cấp sau trận đàn áp Thiên An Môn 1989. Bây giờ, sách của nhà sư Hsing Yun lên danh sách bán chạy tại TQ.

Nghĩa là, ông Tập nếu gọi được là Phật Tử, cũng là vì tiện lợi trong cõi nhân gian.

Bây giờ nói chuyện ông Modi. Báo Bản Tin Châu Á (https://newsin.asia/) từ Sri Lanka ngày 11 tháng 5/2017 có bản tin nhan đề “Buddhism being used as foreign policy plank by India, China, Sri Lanka and even Pakistan” (Phật Giáo được dùng như trọng tâm chính sách ngoại giao bởi Ấn Độ, TQ, Sri Lanka và ngay cả Pakistan).

Trong Đại lễ Vesak Quốc Tế tại Sri Lanka từ ngày 12 tới 14/5/2017, Thủ Tướng Ấn Độ Modi chủ tọa lễ khai mạc, và lễ bế mạc chủ tọa bởi Tổng Thống Bidya Devi Bhandari của Nepal.

Ông Modi theo tiểu sử trên Wikipedia đã ưa thích PG từ khi còn hoạt động trong các tổ chức chính trị cực hữu (cực hữu hiểu như một chủ nghĩa ái quốc, ưu tiên cho đất nước), như hội RSS và Đảng BJP. Tổ chức RSS  xem Phật Giáo như “Ấn Độ Giáo cải biên” và là một phương tiện để tăng ảnh hưởng cho Ấn Độ.

Lãnh đạo  RSS là V.D.Savarkar đã tuyên bố rằng tôn giáo của Ấn Độ là “Hindu-Buddhism” (Phật Giáo-Ấn Giáo) và mô tả Châu Á (nghĩa là bao gồm cả Trung Quốc, Việt Nam…) là một châu lục mang tính “Hindu-Buddhist” (Phật Giáo-Ấn Giáo).

Do vậy, Tiến sĩ David Scott trong một bài viết trên Journal of Current Chinese Affairs năm 2016, nói rằng Modi là Thủ Tướng Ấn Độ đầu tiên sử dụng PG như “quyền lực mềm” trong ngoại giao.

Không giấu kỹ như họ Tập, Modi năm 2014 đã phóng tweet: “On Buddha Purnima, we bow to the venerable Lord Buddha, whose teachings have guided the entire humanity for centuries” (Trong ngày Đại lễ Vesak, chúng ta kính lễ Đức Phật, người có giáo lý đã hướng dẫn toàn thể nhân loại trong nhiều thế kỷ).

Y hệt như một Phật tử thuần thành? Bạn có thể đưa dòng chữ tiếng Anh trên vào Google, sẽ thấy rằng Modi hiển nhiên đã thành kính hơn rất nhiều Phật Tử truyền thống.

Tuy nhiên, chúng ta có thể ngờ vực rằng ông Modi đang lèo lái chính trị, để chinh phục cả tín đồ Ấn Giáo và Phật Giáo. Có một lúc, Modi nói công khai rằng Đức Phật là một nhà cải cách và lời dạy của Đức Phật đã ảnh hưởng trở lại Ấn Giáo. Có vẻ như Modi cũng chỉ đi theo một dạng Phật Giáo cõi nhân gian, nghĩa là chủ yếu dùng như hộ quốc và an dân, nhưng không bận tâm chuyện siêu hình hay giải thoát.

 Do vậy, ông Tập và Modi đã hoan hỷ gặp nhau trong tháng 9/2014, khi Tập tới thăm Gujarat, nơi có ngôi làng nhà sư Huyền Tráng (Hiuen Tsang) ghé chân trong chuyến Tây du từ TQ sang Ấn Độ thỉnh kinh hồi thế kỷ thứ 7.

Tập và Modi ký bản Thông Cáo Chung TQ-Ấn, với lời cam kết rằng TQ sẽ giúp Ấn Độ quảng bá du lịch và các chặng đường Huyền Tráng từng đi năm xưa.

Thế rồi Tập mời Modi thăm TQ tháng 5/2015, đưa Modi tới ngôi chùa White Goose Temple ở Xi’an, nơi Huyền Tráng từ Ấn về cư ngụ tới ngày viên tịch.

Và rồi, chính phủ TQ đưa ra bản báo cáo lần đầu tiên nói rằng TQ là đất nước Phật giáo lớn nhất thế giới, với 675 triệu Phật tử, với hơn 240,000 tăng ni, hơn 28,000 tu viện và 16,000 ngôi chùa – cũng như có tượng Phật cao nhất thế giới.

Phải nói dài dòng như thế, để thấy rằng cả Tập và Modi đều là một dạng Phật tử thế gian, nghĩa là không hàm ý “xuất thế gian” tí nào.

Trong tình hình như thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng phải tùy thuận chúng sinh…

Năm 2016, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời phỏng vấn trên báo Reader's Digest, ấn bản Anh quốc, nhấn mạnh rằng, “Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”

Một điểm căn bản Ngài thường nói, rằng tất cả nhân loại đều như nhau, đều muốn thoát khổ và đều muốn hạnh phúc. Những lời dạy như thế đặc biệtý nghĩa  trong thời đại đầy khắp thánh chiến, đầy khắp khủng bố này.

.

Trong khi đó, tại Hoa Kỳ và tại nhiều quốc gia Tây Phương, cũng có nhiều Phật tử thế gian, tuy rằng họ không hề là chính trị gia. Điển hình nhất là Stephen Batchelor – một học giả nổi tiếng, viết nhiều sách nghiên cứu và là người dạy Thiền nhiều nơi trên thế giới. Ông chủ trương một Phật Giáo Thế Gian. Ông sinh tại Scotland năm 1953. Khi ông ba tuổi, gia đình ông dọn sang Canada thời gian ngắn, nơi ba mẹ ông ly thân, thế rồi ông về Anh cùng mẹ. Năm 18 tuổi, ông sang Dharamsala, thủ đô Tây Tạng lưu vong, học với nhà sư Geshé Ngawang Dhargyey tại thư viện Library of Tibetan Works and Archives, xuất gia làm sa di trong truyền thống Gelug (Phái Mũ Vàng) năm 1974.

Vài tháng sau, ông dự thiền thất Vipassana với Thiền sư Ấn Độ S.N. Goenka. Ông rời Ấn Độ năm 1975 để học giáo lý PG Tây Tạng với thầy Geshe Rabten tại Thụy Sĩ, năm sau được thọ cụ túc giới. Năm 1979, ông sang Đức làm thông ngôn cho thầy Geshé Thubten Ngawang tại Phật học viện Tibetisches Institut ở Hamburg. 

Năm 1981, Batchelor vào Songgwangsa Monastery ở Nam Hàn để học Thiền với thầy Kusan Sunim. Nơi đây, ông gặp Martine Fages, một phụ nữ Pháp xuất gia làm sư cô ở đây từ 1975. Sau khi thầy Kusan Sunim viên tịch, Batchelor và Martine Fages cùng về đời trong năm 1985 và kết hôn, trở về Anh quốc, tham gia tăng thân Sharpham North Community. Trong 15 năm tại Sharpham, ông làm nhiều việc, và là đồng sáng lập đại học PG có tên là Sharpham College for Buddhist Studies and Contemporary Enquiry (1996), nhiều năm làm tuyên úy nhà tù Channings Wood Prison. Từ 1992 là biên tập viên cộng tác cho tạp chí Tricycle: The Buddhist Review. 

Nghĩa là, ông là một học giả cư sĩ nổi tiếngtài năng, đã học nhiều tông phái khác nhau, và rồi chuyên về nghiên cứu Kinh Pali, viết nhiều sách về Phật học. Phải nói dài dòng về ông như thế, để thấy rằng ông có ảnh hưởng lớn trong học giới. Ông trở thành một  Phật tử thế gian theo kiểu riêng của ông. Không hề giống ông Tập và ông Modi tí nào.

Stephen Batchelor tin rằng Đức Phật không hề dạy về nghiệp (karma) và tái sinh (rebirth) – hai khái niệm này, theo ông, là có sẵn của văn hóa Ấn Độ cổ thời. Ông viết rằng, Đạo Phật theo ông hiểu không hề dạy về cõi trời, hay chuyện sinh tử luân hồi, và chỉ dạy về cách sống với hiện tại, rằng chỉ một kiếp này mà thôi, và an lạc là sống với Bát Chánh Đạo bây giờ và ở đây thôi. Ngắn gọn, ông là người vô thần, và cơ duyên là có tu học với Thiền nhà Phật.

Thử đọc vài nhan đề sách ông viết và ấn hành là thấy ngay quan điểm, thí dụ:

-- Buddhism Without Beliefs (Phât Giáo Không Cần Niềm Tin) in năm 1997.

-- Confession of a Buddhist Atheist (Lời Tự Thú của Một Người Vô Thần Phật Tử) in năm 2010.

.

Nơi đây, chúng ta không bàn cụ thể về chuyện ông Tập, ông Modi, hay ông Batchelor. Điều chúng ta cần nhìn chung quanh rằng, trong cộng đồng mình (và trong xã hội tại VN), Phật tử tu học chưa thực sự nghiêm túc. Nghĩa là, ngay cả khi đi chùa hàng tuần hay hàng tháng, rất nhiều người trong chúng ta cũng vẫn là những Phật tử thế gian, nghĩa là không quan tâm về “xuất thế gian”… Nghĩa là, nhiều người trong chúng ta chỉ là một dạng như ông Tập, ông Modi… và còn lười thua cả ông vô thần Batchelor, người thiền tập rất nghiêm túc.

Nhiều người trong chúng ta tới với Phật Giáo -- ngay cả khi làm thơ Thiền, làm nhạc Thiền, viết sách về Thiền… -- cũng không chắc gì quan tâm chuyện giải thoát. Kinh AN 2.46 ghi lời Đức Phật nói rằng có những hội chúng, nơi lời dạy của Đức Phật gắn liền với tánh không, ý nghĩa rất sâu thẳm nhưng khi được tụng đọc (when the discourses of the Tathagata—deep, deep in their meaning, transcendent, connected with emptiness—are recited, the monks don’t listen), các nhà sư không chú tâm nghe, nhưng chỉ ưa đọc thơ Thiền, ưa nghe nhạc Thiền… thế là hỏng.

Nếu như thế, chúng ta cũng là một dạng Phật tử thế gian (may ra đỡ hơn ông Tập, ông Modi?)… Như thế làm sao giải thoát?

Kinh AN 10.27, ghi lời Đức Phật dạy rằng khi một vị sư hoàn toàn xa lìa một thứ thôi là đủ giải thoát, đó là phải xa lìa dưỡng chất (When a monk becomes entirely dispassionate towards this one thing (nutriment)… he is one who, after fully comprehending the Goal, makes an end of suffering here and now).

Dưỡng chất của sinh tử luân hồi là gì?

Kinh SN 12.64 trả lời rằng có 4 dưỡng chất (loại thức ăn) đẩy chúng ta vào sinh tử luân hồi: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thựcthức thực (Edible food, coarse and fine; sense-impression is the second; volitional thought, the third; and consciousness, the fourth).

Nghĩa là, khi chúng ta tham ăn, mê uống là hỏng. Khi chúng ta ưa ngó cảnh đẹp, ưa ngó người đẹp, ưa nghe nhạc hay… cũng là hỏng. Ngay cả những niềm vui cao nhã như làm thơ, viết truyện cũng là tư niệm thựcthức thực (volitional thought and consciousness) cũng là hỏng. Nghĩa là hành (volition) và thức (consciousness) đều buộc chúng ta.

Như thế, nếu thuần tập định (samatha) cũng sẽ hỏng, vì sự an lạc khi ngồi thiền tập định cũng là một dạng thức thực. Kinh AN 4.178 nói rằng nhiều vị chỉ tập tứ thiền bát định đã rơi trở lại sinh tử luân hồi.

Đó cũng là lý do truyền thống Theravada yêu cầu khi tập định phải từ từ kết hợp với huệ (vipassana).

Trong khi truyền thống PG Tây TạngThiền Tông yêu cầu khi tập định sẽ phải chuyển sang Định Vô Tướng (signless concentration).

Thế nào là Định Vô Tướng? Bát Nhã Tâm Kinh là Định Vô Tướng.

Trong Kinh Tương Ưng SN 40.9 (http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2009/12/24.19-Animitta-Cetosamadhi-Panha-S-s40.9-piya.pdf), bản dich Piya Tan viết rằng Đức Phật dạy ngắn gọn về Định Vô Tướng: “…by non-attention to all signs, I entered and dwelled in the signless concentration of mind” (không chú ý vào tất cả các tướng, tôi vào và an trú trong pháp định vô tướng của tâm).

Kinh SN 22.80 (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.080.wlsh.html)  bản dịch Maurice O'Connell Walshe ghi lời Đức Phật nói rằng: “…three unskilled states disappear utterly in him whose heart is well established in the four foundations of mindfulness, or who practices concentration on the signless(…tham sân si biến mất hoàn toàn trong tâm của người khéo an trú trong tứ niệm xứ, hay [trong] người tu pháp định vô tướng).

Như thế, Đức Phật dạy rằng ngoài tứ niệm xứ còn có pháp môn Định Vô Tướng. Và định này không nằm trong tứ thiền bát định. Và đó là “ly nhất thiết tướng”… Và đầu tiên nói tới Định Vô TướngĐức Phật, không phải là Ngài Long Thọ.

Thực ra, trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga)  bản Anh dịch của Bhikkhu Nanamoli, ấn bản in lần thứ 5, nơi Chương XVI cũng có ghi chú về định vô tướng: "Signless": being secluded from the sign of the five aggregates, it is taken as having no graspable entity (Vô tướngxa lìa các tướng của ngũ uần, được nhận ra là một pháp không thể nắm bắt). Đó cũng là ngôn ngữ hệ Bát Nhã vậy.

Có một người bạn tu thiền, anh kể rằng có nhiều dòng nhạc khi nghe hay quá là anh sợ… không dám nghe nữa. Anh cũng kể rằng bộ phim Cuộc Đời Đức Phật hơn 50 tập ai cũng khen hay, nhưng anh xem 10 phút là xúc động quá, phải thôi. Lý do, anh thấy món ăn “thức thực”  quá ngon, hình ảnh quá đẹp, nhạc quá hay… trong khi anh đã quen với pháp định vô tướng.

Còn phu nhân Bành Lệ Viên thì sao? Khi bà tới đứng trang điểm trước gương, là tự ngó không thôi, là chân bước không đành… là “thức thực” vui hoài không ngưng. Làm sao mà giải thoát.

Còn ông Tập Cận Bình thì sao? Khi ông Tập ngó Bành phu nhân, lại mê mẩn nghe thêm giọng ca của bà… thì “thức thực” đã dọn ra khắp không gian, làm sao mà giải thoát.

Bởi vậy, khi làm thơ Thiền, khi làm nhạc Thiền, khi giao tiếp với mọi thứ trong cõi này, hãy giữ pháp định vô tướng cho vững…  Hãy nỗ lực rằng tuy thân mình đang sống nơi cõi nhân gian, tâm vẫn an trú nơi cõi xuất thế gian.

 

 

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Bảy 201713:35
Khách
Cảm ơn anh, bài viết thật hay, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Và tôi cảm thấy mình không đơn độc chút nào.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1647)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1496)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1435)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2026)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1554)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1390)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2907)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1725)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1681)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1634)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1478)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2644)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1604)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1614)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1405)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1424)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1445)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1432)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1521)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2203)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1549)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1623)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1841)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1671)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1424)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1702)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1958)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1761)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1549)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1528)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant