Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Đề TâmChấp Thủ

29 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19806)
Bồ Đề Tâm Và Chấp Thủ

BỒ ĐỀ TÂMCHẤP THỦ

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

blankCó rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nên chúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt. Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui, phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc. Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệm những gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hay vui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điều gì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế, chúng ta không có lấy một ý niệm về “bản thân”, mặc dù chúng ta vẫn nói về “tôi” hay “chúng ta”, và sử dụng những nhãn hiệu được gán cho mình. Tôi cho rằng cho đến giờ chúng ta chưa thực sự hiểu gì về chính bản thân. Vì thế mà giờ đây chúng ta cần tìm hiểu, khám phá bản thân mình, điều này thật là thú vị! Đức Phật dạy rằng: “Luân hồi không có khởi đầu”, vậy là từ vô thủy của luân hồi khổ đau cho tới nay, chúng ta đã sống mà không hề biết gì về mình? Thật nực cười phải không? Thực sự, tôi thấy đây là một chủ đề thú vị để chia sẻ: Điều gì đã xảy đến với bản thân ta, và ta cần làm gì từ giờ phút này trở đi? Mọi thứ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm Đức Phật dạy rằng tâm chúng ta rất hoang dại, vì chúng ta không thể kiểm soát được nó. Các hoạt động dù tốt hay xấu đều là sự phóng chiếu của tâm. Tôn chỉ của Phật giáo Nguyên Thủy là “tránh hết thảy ác”, còn của Phật giáo Đại thừa là “làm hết thảy lành”. Cả hai thừa đều cùng một tôn chỉ: mọi thứ hoàn toàn tùy thuộc vào tâm - vì tâm là năng lực duy nhất tạo nên hoạt động thiện hay ác.

Thân, khẩu chúng ta chỉ là phương tiện trợ giúp tâm tạo nên hoạt động, còn tâm mới là nhân tố quyết định tạo nên hoạt động đó. Nếu tâm không tác ý cho một hoạt động cụ thể nào, thì chắc chắn thân, khẩu sẽ không biểu hiện hoạt động đó. Rất nhiều tín ngưỡng không thuộc Đạo Phật cũng nhấn mạnh tôn chỉ “bất bạo động”. Tuy nhiên ĐỘNG CƠ (tâm tác ý) của Đạo Phật đối với tôn chỉ này rộng lớn hơn. Đây là một điểm khác biệt rất tinh tế giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Tất cả các tín ngưỡng tâm linh đều dạy mọi người không được làm ác, và đều khuyến khích hành thiện. Bởi vì chưa thực chứng được bản chất của Tâm nên không ai trong chúng ta, ngay cả một số hành giả tâm linh, có thể thực hành được điều này một cách toàn vẹn. Vì thế mà giờ đây, dù có phải là Phật tử hay không, bạn đều cần tìm cách đối trịchuyển hóa tâm mình. Vì chính tâm vô minh của chúng ta đã quấy nhiễu hết thảy chúng sinh từ vô thủy tới nay. Rất nhiều người trong số chúng ta đã tìm cách đào luyện tâm theo những phương cách khác nhau, song chúng ta đều không thực sự thành công.

Mặc dù có nhiều cách thức đào luyện tâm, nhưng thực tế, tâm chỉ có thể thực sự được rèn luyện bởi chính nó, chứ không phải nhờ bất kỳ yếu tố bên ngoài nào khác. Đôi khi, chúng ta cố gắng hiểu được tâm mình, đôi khi chúng ta muốn đè nén tâm. Tôi cho rằng đây không phải là những biện pháp tích cực, thiện xảo để chuyển hóa tâm. Hầu hết các kỹ năng rèn luyện tâm đều không thực sự thành công vì tâm phức tạp như chính chúng ta vậy. Nếu bối rối, tán loạn, tâm sẽ dẫn dắt ta trôi lăn trong cõi luân hồi. Nếu định tĩnh, an lạc, tâm có thể đưa ta tới Niết Bàn giải thoát. Vì thế, tâm chúng ta có đủ công dụng thiện và công dụng bất thiện. Đó là lí do tại sao Đức Phật dạy rằng tâm cần phải được điều phục.

Cần phải liên tục quán chiếu tâm.Phương pháp tu tập phát triển Bồ đề tâm là cách rèn luyệnmở rộng tâm mình. Tâm chúng ta thường hẹp hòi ích kỷ, tới nỗi không còn chỗ dành cho người khác. Chúng ta chỉ có thể nghĩ về chính mình và những người thân của mình, như gia đình, bạn bè và con cái. Nhưng điều này cũng chỉ diễn ra với một thời gian ngắn ngủi và kèm theo rất nhiều điều kiện. Đôi lúc, chúng ta không thích người khác đeo bám lấy mình, nhờ vả mình. Có lúc chúng ta lại thích được yêu thương, được quan tâm chăm sóc, có lúc chúng ta lại muốn ở một mình để được yên thân, phải vậy không? Nếu mong muốn của mình được thỏa mãn, chúng ta sẽ phần nào cảm thấy dễ chịu. Ít nhất thì điều này cũng đúng với tôi! Các bạn không cảm thấy như vậy sao? Có thể chưa ai trong số các bạn quán sát về điều đó, nhưng quả thực tâm của ta hoạt động theo cơ chế như vậy.

Tôi nghĩ rằng tâm không thích khi bị kiểm soát và bị ép buộc. Nhưng tâm cần được quán chiếu một cách liên tục, trong sáng không chút ảo tưởnghư ngụy nào! Chỉ cách đó mới đưa chúng ta về bản chất tự nhiên của tâm (Niết Bàn) - trạng thái hoàn toàn thư giãn, an lạc và trải rộng muôn nơi.

Tôi đã nói khá nhiều về phương pháp chuyển hóa tâm. Vì tâm chúng ta vốn hẹp hòi ích kỷ nên cần phải tu tập trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm hay “Tâm Giác Ngộ”. Bằng cách trưởng dưỡng các phẩm hạnh về tình yêu thươnglòng bi mẫn, không căm thù, sân giận hoặc ganh ghét, bạn sẽ có thể trải rộng tâm mình. Trong lúc tu tập phát triển Bồ Đề Tâm, bạn nên quán chiếu một cách logic rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau, bởi vậy cần quan tâm chăm sóc nhau, vì tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau do chưa thực chứng được bản chất tâm của chính mình. Tất cả chúng ta đều quay cuồngđiên dại như nhau, vì thế tại sao không giúp đỡ và phụng sự những người khác cũng đang trong tình trạng đau khổ tột bậc như mình? Đây là một loại lý thuyết logic bên ngoài mà chúng ta có thể quán chiếu, và là một trong những logic chính yếu mà tất cả chúng ta đều có thể quán xét. 

Vạn pháphư ảo

Logic siêu việt hay logic nội chứng liên quan đến quan điểm triết học cho rằng vạn pháp đều không tồn tại như nó xuất hiện: vạn pháp đều hư ảo. Thế giới hư ảo dường như rất bền chắc đối với chúng ta, nhưng nó không thực sự tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn bị hấp dẫn bởi thế giới này, chúng ta bị cuốn trôi tới điên đảo bởi những thứ hư vọng đó. Chúng ta cuồng loạn bởi những hấp dẫn bên ngoài liên tục khuấy đảo tâm ta, và kết cục chẳng có gì tồn tại, đó là kết quả của thế giới này. Chúng ta đang đơn thuần rượt đuổi theo những huyễn ảo như cầu vồng. Lẽ đương nhiên là tới đây chúng ta trở nên kiệt quệ. Bạn có thể nói đó là một trong những đau khổ chính mà chúng ta đang phải trải qua.

Đó là lý do tại sao chúng ta nên trưởng dưỡng lòng từ bi tới tất cả chúng sinh, bởi vì chúng ta đã nhận ra được sự thật này một cách có trí tuệ. Có hàng triệu triệu người vẫn hoàn toàn vô minh, họ không có dù chỉ một chút tri thức ít ỏi về điều này. Vì thế, chúng ta là số người may mắn ít ỏi có đủ phúc duyên thấy được thực tại của thế giới này. 

Đó là lý do tại sao cần phảihạnh nguyện Bồ Tát cứu độ, phụng sự hết thảy hữu tình. Đó là một dạng logic rất sâu sắc, và là một lý do tốt để bạn trưởng dưỡng Bồ đề tâm. Bạn biết rằng còn triệu triệu chúng sinh đang sa vào cạm bẫy và bám chấp vào thế giới hư ảo, không nhận ra thế giới vô thường. Đây là căn nguyên dẫn đến khổ đau. Như vậy bạn là người đang nắm được cơ hội hy hữu để thực hành pháp chấm dứt khổ đau. Điều này cần trở thành động cơ khuyến khích bạn tinh tấn thực hành với mong nguyện, “Tôi phải tu tập một cách chân thành, không bỏ phí một chút thời gian quý giá nào trong cuộc đời này, để có thể cứu độ chúng sinh đang thực sự khổ đau mà không hề nhận thức được”. Những động cơ như thế này phải luôn hiện diện trong tâm bạn. Đó là cái được gọi là động cơ vị tha hay “Tâm Giác Ngộ”. 

Mọi hoạt động thế tục trong đời sống đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta.

Chừng nào còn bám chấp vào thế giới này thì chừng đó chúng ta không thể giải thoát. Chúng ta bám chấp vào những vật đẹp đẽ hay xấu xí, vào kẻ thù hay bằng hữu. Bất kỳ hoạt động thế tục nào được làm đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta. Chúng ta nói: “Như vậy này! Điều này phải được làm thế này còn điều nọ phải được làm thế nọ.” Chúng ta đưa ra các yêu cầu đòi hỏi thuận theo sự ham muốn chấp thủ của chính mình. Đó thực sự là điểm xuất phát của mọi sai lầm mà từ đó ta kinh qua vô số kinh nghiệm đầy khổ đau. Chẳng hạn như, bạn bám chấp vào ý niệm ai đó là kẻ thù của mình, rồi bạn thấy rất khó chịu và bực mình mỗi khi nhìn thấy người đó, hay chỉ cần nghe thấy tên và giọng nói của người đó. Đây là điều mà tôi đã nói lúc trước về sự huyễn ảo của những thứ mà chúng ta đang theo đuổi. Khi bạn có một người bạn tuyệt vời thì bạn sẽ rất ích kỷ muốn người ta thuộc về mình mãi mãi, không muốn một ai khác kết giao với người đó, thậm chí không ai được chạm vào người hay cười với anh ta, cô ta. Đây là một kiểu chấp thủ mà bạn thường có. Sau này, khi bạn phát hiện ra một ai đó đã kết thân với anh ta hơn cả bạn, thử hình dung xem bạn sẽ đau khổ như thế nào. Sự đau đớn này là sản phẩm từ tâm chấp thủ của bạn tạo ra chứ không phải do bất kỳ ai khác. 

Tất cả chúng ta, không ai muốn loại đau khổ này! Vì thế, chúng ta cần loại bỏ chấp thủ. Để làm được điều này, bạn cần nhận ra bản chất chân thật của vạn pháp. Những xúc cảm như "thích" hay "không thích" không tự có bản chất, mà chỉ là sự sáng tạo hay sự phóng chiếu của tâm bạn. Điều đó có nghĩa rằng thế giới này được tạo thành từ tâm của bạn, và nó là một thế giới huyễn ảo. Ví như một người bạn rất hấp dẫn với bạn, nhưng anh ta lại không hề hấp dẫn với người khác, nên sự hấp dẫn này chỉ là ảo tưởng, không có bản chất. Bởi vì bạn không nhận ra đó là ảo tưởng hay sự phóng chiếu của tâm, nên bạn cảm thấy ngây ngất si mê truớc người đó. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy một cái gì bất ổn, và giao kết với người kia là một sai lầm. Lúc đó, theo thói thường, bạn sẽ than thở, trách móc, đổ lỗi cho người bạn của mình. Nhưng thử nhìn lại xem, trước đó ai là người đầu tiên đã hết sức bám chấp vào “hương vị ngọt ngào” của mối quan hệ này? Chính sự chấp thủ đã khiến bạn bám chấp vào sự bền chắc và vị ngọt của tình bạn đó. Cho nên chính sự chấp thủ của bạn mới đáng trách. Cho tới nay thì sự chấp thủảo tưởng vẫn hòa hợp với nhau một cách đầy sáng tạo. Nhưng trên thực tế mọi việc không hẳn là như vậy. Vì thế, qua trí tuệ của bạn về Trung Quán hay Đại Thủ Ấn, và hai chân lý - (chân lý tương đốituyệt đối), bạn sẽ thấu hiểu bản chất hư ảo của thế giới, và sẽ có thể giảm thiểu những khổ đau được tạo ra từ chấp thủ. Bạn cần thực hành trưởng dưỡng tình yêu thươngtâm bi mẫn

Tóm lại, tôi muốn nói rằng ta không nên chấp vào những tư tưởng, xúc cảm của mình, dù nó tốt hay xấu. Sự bám chấp vào những thứ này thực sự là chấp thủ. Tôi không muốn nói rằng chúng ta không nên có lòng từ bi hay thương yêu lẫn nhau. Nếu thế chúng ta sẽ trở thành vô cảm như sỏi đá. Vì thế, xin bạn đừng hiểu lầm khi tôi nói, “Đừng bám chấp vào cảm xúc của mình”. Có rất nhiều người có thể hỏi: “Làm sao tôi có thể yêu thương người khác mà không quyến luyến bám chấp?” Tình yêu thương với chấp thủ là tình yêu thương mê lầm, yêu thương không chấp thủ là yêu thương trí tuệ. Như tôi đã nói lúc đầu, bạn cần phải thực hành trưởng dưỡng tình yêu thươnglòng bi mẫn. Tình yêu thương là tinh yếu của giáo lý Đạo Phật và cả các tôn giáo khác. Không có gì là sai trái trong tình yêu thương, tâm bi mẫn hay sự quan tâm và lòng mến mộ, nhưng phải được thắp sáng bởi trí tuệ không còn chấp thủ hay không còn hiểu biết sai lệch. Làm sao hành giả có thể đi trên con đường cao quý của Bồ đề tâm vĩ đại, khi tâm hành giả tràn đầy vô minhhiểu biết lệch lạc về thế giới mà mình đang sống.

Điều chúng ta cần tránh là sự bám chấp hay thái độ chấp thủ. Chúng ta thử lấy quan hệ bạn bè để minh họa. Quá nhiều ý nghĩ chấp thủ đối với bạn của mình sẽ đem đến sự đau khổ sau đó. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có ít nhiều kinh nghiệm về chuyện này nên tôi không cần nói nhiều. Vì thế, nếu chấp thủ, bạn sẽ kết thúc tình bạn của mình trong mâu thuẫnlục đục, không hưởng được khoảng thời gian tốt đẹp bên nhau. Đôi khi sự cãi vã cũng chỉ để vui, nhưng đa số trường hợp, nó đều đem lại đau khổchúng ta không hề muốn. Chính thái độ chấp thủ này đã khiến trái tim bạn nhức nhối, tan nát, dẫn đến bệnh tim mạch. Nếu không chấp thủ, khi đối diện với vấn đề rắc rối trong gia đình hay xã hội, bạn sẽ tìm ra nhiều giải pháp tốt để giải quyết mọi việc một cách bình an. Bạn sẽ tránh được những trải nghiệm đau đớn, sẽ dễ dàng coi những vấn đề rắc rối làm những bài pháp thực tế trong cuộc sống, như những hành giả Phật pháp thực thụ. Đây là những phương cách giúp bạn cải thiện tâm mình. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chínhđúng đắn Nếu không cải thiện tâm thức, chúng ta sẽ không thể cải thiện được lối sống của mình. 

Có rất nhiều người nói rằng: “Tôi thích thiền định. Tôi đã thiền định trong nhiều giờ đồng hồ, nhiều tháng trời, nhiều năm ròng”. Nhưng họ vẫn không thể cải thiện được lối sống của họ. Họ tiếp tục cãi vã, mắng nhiếc, thậm chí đánh nhau thường xuyên với bạn trai hoặc bạn gái của mình. Vì họ đã không hiểu được thực tế - điều gì đang diễn ra trong cuộc sống và điều gì cần được chấp nhận. Mặc dù tu tậpthiền định rất nhiều năm, song họ đã không thể thay đổi được lối sống, chẳng có chút tiến bộ hay an bình nào trong cuộc sống của họ. Điều này cho thấy họ đã không thực sự tập chung vào việc chuyển hóa tâm, không tiếp cận được phương pháp đúng đắn giúp họ cải thiện tâm. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chínhđúng đắn. Sự thay đổi bên trong sẽ mang đến sự thay đổi bên ngoài. Khi sự chuyển hóa bên trong diễn ra, chúng ta có thể nhận biết được điều này từ bên ngoài. Chỉ cần nhìn những dấu hiệu thay đổi ngoài là chúng ta có thể nhận biết ai đó thực sự đang cải thiện. Và rồi những người hàng xóm, bạn bè và tất cả mọi người cũng sẽ để ý tới điều đó và nói rằng, “Anh ta đã tu tập thật tốt. Trước khi thực hành con đường tâm linh, anh
ta từng là một người kinh khủng, nhưng bây giờ anh ta trở nên thật ôn hòa và chẳng bao giờ tranh cãi với bất kỳ ai? Nhờ công phu tu tập, anh ta thực sự trở thành một người tốt, trầm tĩnh và đầy hiểu biết”.

Chúng ta không thực hành để mong cầu danh tiếng hay để phô trương, nhưng những dấu hiệu tốt của sự thay đổi vẫn hiển diện. Kinh điển có dạy, các vị Bồ Tát có những phẩm hạnh, dấu hiệu đặc biệt chúng ta có thể nhận biết. Tương tự như vậy, thông qua sự chuyển hóa từ bên ngoài, chúng ta có thể nhận ra một người có thực hành Phật Pháp hay không. Niềm mong ước và lời cầu nguyện chân thành của tôi là hết thảy hữu tình chúng sinh, đặc biệt là những ai có duyên với tôi và Truyền Thừa Drukpa, sẽ biết tinh tấn tu tập để có thể mang lại những chuyển đổi tích cực trong cuộc đời mình, sống hòa hợp với người khácmãi mãi an vui trong hạnh phúc.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1226)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1440)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1173)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1552)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2723)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1729)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1300)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1838)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1582)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1788)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1716)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2257)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1673)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2007)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1996)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2161)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1865)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1832)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1846)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1784)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2054)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2159)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1864)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1742)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1801)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2295)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2195)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2351)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3006)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3207)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2238)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2593)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2901)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2539)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3428)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4106)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3602)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant