Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Đề TâmChấp Thủ

29 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19804)
Bồ Đề Tâm Và Chấp Thủ

BỒ ĐỀ TÂMCHẤP THỦ

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

blankCó rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nên chúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt. Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui, phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc. Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệm những gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hay vui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điều gì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế, chúng ta không có lấy một ý niệm về “bản thân”, mặc dù chúng ta vẫn nói về “tôi” hay “chúng ta”, và sử dụng những nhãn hiệu được gán cho mình. Tôi cho rằng cho đến giờ chúng ta chưa thực sự hiểu gì về chính bản thân. Vì thế mà giờ đây chúng ta cần tìm hiểu, khám phá bản thân mình, điều này thật là thú vị! Đức Phật dạy rằng: “Luân hồi không có khởi đầu”, vậy là từ vô thủy của luân hồi khổ đau cho tới nay, chúng ta đã sống mà không hề biết gì về mình? Thật nực cười phải không? Thực sự, tôi thấy đây là một chủ đề thú vị để chia sẻ: Điều gì đã xảy đến với bản thân ta, và ta cần làm gì từ giờ phút này trở đi? Mọi thứ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm Đức Phật dạy rằng tâm chúng ta rất hoang dại, vì chúng ta không thể kiểm soát được nó. Các hoạt động dù tốt hay xấu đều là sự phóng chiếu của tâm. Tôn chỉ của Phật giáo Nguyên Thủy là “tránh hết thảy ác”, còn của Phật giáo Đại thừa là “làm hết thảy lành”. Cả hai thừa đều cùng một tôn chỉ: mọi thứ hoàn toàn tùy thuộc vào tâm - vì tâm là năng lực duy nhất tạo nên hoạt động thiện hay ác.

Thân, khẩu chúng ta chỉ là phương tiện trợ giúp tâm tạo nên hoạt động, còn tâm mới là nhân tố quyết định tạo nên hoạt động đó. Nếu tâm không tác ý cho một hoạt động cụ thể nào, thì chắc chắn thân, khẩu sẽ không biểu hiện hoạt động đó. Rất nhiều tín ngưỡng không thuộc Đạo Phật cũng nhấn mạnh tôn chỉ “bất bạo động”. Tuy nhiên ĐỘNG CƠ (tâm tác ý) của Đạo Phật đối với tôn chỉ này rộng lớn hơn. Đây là một điểm khác biệt rất tinh tế giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Tất cả các tín ngưỡng tâm linh đều dạy mọi người không được làm ác, và đều khuyến khích hành thiện. Bởi vì chưa thực chứng được bản chất của Tâm nên không ai trong chúng ta, ngay cả một số hành giả tâm linh, có thể thực hành được điều này một cách toàn vẹn. Vì thế mà giờ đây, dù có phải là Phật tử hay không, bạn đều cần tìm cách đối trịchuyển hóa tâm mình. Vì chính tâm vô minh của chúng ta đã quấy nhiễu hết thảy chúng sinh từ vô thủy tới nay. Rất nhiều người trong số chúng ta đã tìm cách đào luyện tâm theo những phương cách khác nhau, song chúng ta đều không thực sự thành công.

Mặc dù có nhiều cách thức đào luyện tâm, nhưng thực tế, tâm chỉ có thể thực sự được rèn luyện bởi chính nó, chứ không phải nhờ bất kỳ yếu tố bên ngoài nào khác. Đôi khi, chúng ta cố gắng hiểu được tâm mình, đôi khi chúng ta muốn đè nén tâm. Tôi cho rằng đây không phải là những biện pháp tích cực, thiện xảo để chuyển hóa tâm. Hầu hết các kỹ năng rèn luyện tâm đều không thực sự thành công vì tâm phức tạp như chính chúng ta vậy. Nếu bối rối, tán loạn, tâm sẽ dẫn dắt ta trôi lăn trong cõi luân hồi. Nếu định tĩnh, an lạc, tâm có thể đưa ta tới Niết Bàn giải thoát. Vì thế, tâm chúng ta có đủ công dụng thiện và công dụng bất thiện. Đó là lí do tại sao Đức Phật dạy rằng tâm cần phải được điều phục.

Cần phải liên tục quán chiếu tâm.Phương pháp tu tập phát triển Bồ đề tâm là cách rèn luyệnmở rộng tâm mình. Tâm chúng ta thường hẹp hòi ích kỷ, tới nỗi không còn chỗ dành cho người khác. Chúng ta chỉ có thể nghĩ về chính mình và những người thân của mình, như gia đình, bạn bè và con cái. Nhưng điều này cũng chỉ diễn ra với một thời gian ngắn ngủi và kèm theo rất nhiều điều kiện. Đôi lúc, chúng ta không thích người khác đeo bám lấy mình, nhờ vả mình. Có lúc chúng ta lại thích được yêu thương, được quan tâm chăm sóc, có lúc chúng ta lại muốn ở một mình để được yên thân, phải vậy không? Nếu mong muốn của mình được thỏa mãn, chúng ta sẽ phần nào cảm thấy dễ chịu. Ít nhất thì điều này cũng đúng với tôi! Các bạn không cảm thấy như vậy sao? Có thể chưa ai trong số các bạn quán sát về điều đó, nhưng quả thực tâm của ta hoạt động theo cơ chế như vậy.

Tôi nghĩ rằng tâm không thích khi bị kiểm soát và bị ép buộc. Nhưng tâm cần được quán chiếu một cách liên tục, trong sáng không chút ảo tưởnghư ngụy nào! Chỉ cách đó mới đưa chúng ta về bản chất tự nhiên của tâm (Niết Bàn) - trạng thái hoàn toàn thư giãn, an lạc và trải rộng muôn nơi.

Tôi đã nói khá nhiều về phương pháp chuyển hóa tâm. Vì tâm chúng ta vốn hẹp hòi ích kỷ nên cần phải tu tập trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm hay “Tâm Giác Ngộ”. Bằng cách trưởng dưỡng các phẩm hạnh về tình yêu thươnglòng bi mẫn, không căm thù, sân giận hoặc ganh ghét, bạn sẽ có thể trải rộng tâm mình. Trong lúc tu tập phát triển Bồ Đề Tâm, bạn nên quán chiếu một cách logic rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau, bởi vậy cần quan tâm chăm sóc nhau, vì tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau do chưa thực chứng được bản chất tâm của chính mình. Tất cả chúng ta đều quay cuồngđiên dại như nhau, vì thế tại sao không giúp đỡ và phụng sự những người khác cũng đang trong tình trạng đau khổ tột bậc như mình? Đây là một loại lý thuyết logic bên ngoài mà chúng ta có thể quán chiếu, và là một trong những logic chính yếu mà tất cả chúng ta đều có thể quán xét. 

Vạn pháphư ảo

Logic siêu việt hay logic nội chứng liên quan đến quan điểm triết học cho rằng vạn pháp đều không tồn tại như nó xuất hiện: vạn pháp đều hư ảo. Thế giới hư ảo dường như rất bền chắc đối với chúng ta, nhưng nó không thực sự tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn bị hấp dẫn bởi thế giới này, chúng ta bị cuốn trôi tới điên đảo bởi những thứ hư vọng đó. Chúng ta cuồng loạn bởi những hấp dẫn bên ngoài liên tục khuấy đảo tâm ta, và kết cục chẳng có gì tồn tại, đó là kết quả của thế giới này. Chúng ta đang đơn thuần rượt đuổi theo những huyễn ảo như cầu vồng. Lẽ đương nhiên là tới đây chúng ta trở nên kiệt quệ. Bạn có thể nói đó là một trong những đau khổ chính mà chúng ta đang phải trải qua.

Đó là lý do tại sao chúng ta nên trưởng dưỡng lòng từ bi tới tất cả chúng sinh, bởi vì chúng ta đã nhận ra được sự thật này một cách có trí tuệ. Có hàng triệu triệu người vẫn hoàn toàn vô minh, họ không có dù chỉ một chút tri thức ít ỏi về điều này. Vì thế, chúng ta là số người may mắn ít ỏi có đủ phúc duyên thấy được thực tại của thế giới này. 

Đó là lý do tại sao cần phảihạnh nguyện Bồ Tát cứu độ, phụng sự hết thảy hữu tình. Đó là một dạng logic rất sâu sắc, và là một lý do tốt để bạn trưởng dưỡng Bồ đề tâm. Bạn biết rằng còn triệu triệu chúng sinh đang sa vào cạm bẫy và bám chấp vào thế giới hư ảo, không nhận ra thế giới vô thường. Đây là căn nguyên dẫn đến khổ đau. Như vậy bạn là người đang nắm được cơ hội hy hữu để thực hành pháp chấm dứt khổ đau. Điều này cần trở thành động cơ khuyến khích bạn tinh tấn thực hành với mong nguyện, “Tôi phải tu tập một cách chân thành, không bỏ phí một chút thời gian quý giá nào trong cuộc đời này, để có thể cứu độ chúng sinh đang thực sự khổ đau mà không hề nhận thức được”. Những động cơ như thế này phải luôn hiện diện trong tâm bạn. Đó là cái được gọi là động cơ vị tha hay “Tâm Giác Ngộ”. 

Mọi hoạt động thế tục trong đời sống đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta.

Chừng nào còn bám chấp vào thế giới này thì chừng đó chúng ta không thể giải thoát. Chúng ta bám chấp vào những vật đẹp đẽ hay xấu xí, vào kẻ thù hay bằng hữu. Bất kỳ hoạt động thế tục nào được làm đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta. Chúng ta nói: “Như vậy này! Điều này phải được làm thế này còn điều nọ phải được làm thế nọ.” Chúng ta đưa ra các yêu cầu đòi hỏi thuận theo sự ham muốn chấp thủ của chính mình. Đó thực sự là điểm xuất phát của mọi sai lầm mà từ đó ta kinh qua vô số kinh nghiệm đầy khổ đau. Chẳng hạn như, bạn bám chấp vào ý niệm ai đó là kẻ thù của mình, rồi bạn thấy rất khó chịu và bực mình mỗi khi nhìn thấy người đó, hay chỉ cần nghe thấy tên và giọng nói của người đó. Đây là điều mà tôi đã nói lúc trước về sự huyễn ảo của những thứ mà chúng ta đang theo đuổi. Khi bạn có một người bạn tuyệt vời thì bạn sẽ rất ích kỷ muốn người ta thuộc về mình mãi mãi, không muốn một ai khác kết giao với người đó, thậm chí không ai được chạm vào người hay cười với anh ta, cô ta. Đây là một kiểu chấp thủ mà bạn thường có. Sau này, khi bạn phát hiện ra một ai đó đã kết thân với anh ta hơn cả bạn, thử hình dung xem bạn sẽ đau khổ như thế nào. Sự đau đớn này là sản phẩm từ tâm chấp thủ của bạn tạo ra chứ không phải do bất kỳ ai khác. 

Tất cả chúng ta, không ai muốn loại đau khổ này! Vì thế, chúng ta cần loại bỏ chấp thủ. Để làm được điều này, bạn cần nhận ra bản chất chân thật của vạn pháp. Những xúc cảm như "thích" hay "không thích" không tự có bản chất, mà chỉ là sự sáng tạo hay sự phóng chiếu của tâm bạn. Điều đó có nghĩa rằng thế giới này được tạo thành từ tâm của bạn, và nó là một thế giới huyễn ảo. Ví như một người bạn rất hấp dẫn với bạn, nhưng anh ta lại không hề hấp dẫn với người khác, nên sự hấp dẫn này chỉ là ảo tưởng, không có bản chất. Bởi vì bạn không nhận ra đó là ảo tưởng hay sự phóng chiếu của tâm, nên bạn cảm thấy ngây ngất si mê truớc người đó. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy một cái gì bất ổn, và giao kết với người kia là một sai lầm. Lúc đó, theo thói thường, bạn sẽ than thở, trách móc, đổ lỗi cho người bạn của mình. Nhưng thử nhìn lại xem, trước đó ai là người đầu tiên đã hết sức bám chấp vào “hương vị ngọt ngào” của mối quan hệ này? Chính sự chấp thủ đã khiến bạn bám chấp vào sự bền chắc và vị ngọt của tình bạn đó. Cho nên chính sự chấp thủ của bạn mới đáng trách. Cho tới nay thì sự chấp thủảo tưởng vẫn hòa hợp với nhau một cách đầy sáng tạo. Nhưng trên thực tế mọi việc không hẳn là như vậy. Vì thế, qua trí tuệ của bạn về Trung Quán hay Đại Thủ Ấn, và hai chân lý - (chân lý tương đốituyệt đối), bạn sẽ thấu hiểu bản chất hư ảo của thế giới, và sẽ có thể giảm thiểu những khổ đau được tạo ra từ chấp thủ. Bạn cần thực hành trưởng dưỡng tình yêu thươngtâm bi mẫn

Tóm lại, tôi muốn nói rằng ta không nên chấp vào những tư tưởng, xúc cảm của mình, dù nó tốt hay xấu. Sự bám chấp vào những thứ này thực sự là chấp thủ. Tôi không muốn nói rằng chúng ta không nên có lòng từ bi hay thương yêu lẫn nhau. Nếu thế chúng ta sẽ trở thành vô cảm như sỏi đá. Vì thế, xin bạn đừng hiểu lầm khi tôi nói, “Đừng bám chấp vào cảm xúc của mình”. Có rất nhiều người có thể hỏi: “Làm sao tôi có thể yêu thương người khác mà không quyến luyến bám chấp?” Tình yêu thương với chấp thủ là tình yêu thương mê lầm, yêu thương không chấp thủ là yêu thương trí tuệ. Như tôi đã nói lúc đầu, bạn cần phải thực hành trưởng dưỡng tình yêu thươnglòng bi mẫn. Tình yêu thương là tinh yếu của giáo lý Đạo Phật và cả các tôn giáo khác. Không có gì là sai trái trong tình yêu thương, tâm bi mẫn hay sự quan tâm và lòng mến mộ, nhưng phải được thắp sáng bởi trí tuệ không còn chấp thủ hay không còn hiểu biết sai lệch. Làm sao hành giả có thể đi trên con đường cao quý của Bồ đề tâm vĩ đại, khi tâm hành giả tràn đầy vô minhhiểu biết lệch lạc về thế giới mà mình đang sống.

Điều chúng ta cần tránh là sự bám chấp hay thái độ chấp thủ. Chúng ta thử lấy quan hệ bạn bè để minh họa. Quá nhiều ý nghĩ chấp thủ đối với bạn của mình sẽ đem đến sự đau khổ sau đó. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có ít nhiều kinh nghiệm về chuyện này nên tôi không cần nói nhiều. Vì thế, nếu chấp thủ, bạn sẽ kết thúc tình bạn của mình trong mâu thuẫnlục đục, không hưởng được khoảng thời gian tốt đẹp bên nhau. Đôi khi sự cãi vã cũng chỉ để vui, nhưng đa số trường hợp, nó đều đem lại đau khổchúng ta không hề muốn. Chính thái độ chấp thủ này đã khiến trái tim bạn nhức nhối, tan nát, dẫn đến bệnh tim mạch. Nếu không chấp thủ, khi đối diện với vấn đề rắc rối trong gia đình hay xã hội, bạn sẽ tìm ra nhiều giải pháp tốt để giải quyết mọi việc một cách bình an. Bạn sẽ tránh được những trải nghiệm đau đớn, sẽ dễ dàng coi những vấn đề rắc rối làm những bài pháp thực tế trong cuộc sống, như những hành giả Phật pháp thực thụ. Đây là những phương cách giúp bạn cải thiện tâm mình. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chínhđúng đắn Nếu không cải thiện tâm thức, chúng ta sẽ không thể cải thiện được lối sống của mình. 

Có rất nhiều người nói rằng: “Tôi thích thiền định. Tôi đã thiền định trong nhiều giờ đồng hồ, nhiều tháng trời, nhiều năm ròng”. Nhưng họ vẫn không thể cải thiện được lối sống của họ. Họ tiếp tục cãi vã, mắng nhiếc, thậm chí đánh nhau thường xuyên với bạn trai hoặc bạn gái của mình. Vì họ đã không hiểu được thực tế - điều gì đang diễn ra trong cuộc sống và điều gì cần được chấp nhận. Mặc dù tu tậpthiền định rất nhiều năm, song họ đã không thể thay đổi được lối sống, chẳng có chút tiến bộ hay an bình nào trong cuộc sống của họ. Điều này cho thấy họ đã không thực sự tập chung vào việc chuyển hóa tâm, không tiếp cận được phương pháp đúng đắn giúp họ cải thiện tâm. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chínhđúng đắn. Sự thay đổi bên trong sẽ mang đến sự thay đổi bên ngoài. Khi sự chuyển hóa bên trong diễn ra, chúng ta có thể nhận biết được điều này từ bên ngoài. Chỉ cần nhìn những dấu hiệu thay đổi ngoài là chúng ta có thể nhận biết ai đó thực sự đang cải thiện. Và rồi những người hàng xóm, bạn bè và tất cả mọi người cũng sẽ để ý tới điều đó và nói rằng, “Anh ta đã tu tập thật tốt. Trước khi thực hành con đường tâm linh, anh
ta từng là một người kinh khủng, nhưng bây giờ anh ta trở nên thật ôn hòa và chẳng bao giờ tranh cãi với bất kỳ ai? Nhờ công phu tu tập, anh ta thực sự trở thành một người tốt, trầm tĩnh và đầy hiểu biết”.

Chúng ta không thực hành để mong cầu danh tiếng hay để phô trương, nhưng những dấu hiệu tốt của sự thay đổi vẫn hiển diện. Kinh điển có dạy, các vị Bồ Tát có những phẩm hạnh, dấu hiệu đặc biệt chúng ta có thể nhận biết. Tương tự như vậy, thông qua sự chuyển hóa từ bên ngoài, chúng ta có thể nhận ra một người có thực hành Phật Pháp hay không. Niềm mong ước và lời cầu nguyện chân thành của tôi là hết thảy hữu tình chúng sinh, đặc biệt là những ai có duyên với tôi và Truyền Thừa Drukpa, sẽ biết tinh tấn tu tập để có thể mang lại những chuyển đổi tích cực trong cuộc đời mình, sống hòa hợp với người khácmãi mãi an vui trong hạnh phúc.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 545)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant