Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Đức Phật

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10712)
01. Đức Phật

ÐỨC PHẬT

Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên, nhà cải cách thành công nhất, vị đạotừ bi nhất và độ lượng nhất và là một nhà quản trị hữu hiệu nhất. Ðặc trưng đáng chú ý nhất của Ðức Phật là sự thanh tịnhthánh thiện hoàn toàn của Ngài. Ngài quá thanh tịnh và quá thánh thiện đến mức độ mà Ngài phải được gọi là bậc thánh thiện nhất trong các bậc Thánh. Ngài là mẫu người hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất về nhiều mặt, bất cứ ai tiếp xúc với ngài cũng đều công nhận sự vĩ đại không thể phủ nhận được và được ảnh hưởng sâu sắc bởi cá tính có sức hấp dẫn của Ngài.

Ý chí, trí tuệ, lòng từ bi, sự phục vụ, sự xuất thế, cuộc sống mẫu mực của Ngài, và sự thành công của Ngài - tất cả những yếu tố này góp phần hoan nghênh Ðức Phật như một bậc đạo sư vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ðức Phật là người đầu tiên trên thế gian này lãnh một sứ mạng tích cực trong việc hoằng hóa độ sanh. Ngài du hành từ nơi này đến nơi khác trong 45 năm, truyền thuyết pháp cho cả dân chúng lẫn tầng lớp trí thức, vua chúa, quí tộc v.v... Mãi cho đến lúc sắp nhập Niết-bàn, Ngài đã phục vụ cho quần sanh bằng những tấm gương lẫn giới hạnh của Ngài. Những vị đệ tử xuất sắc của Ngài cũng hành động giống như những gì bậc đạo sư của họ đã làm. Thậm chí không một đồng xu dính túi - họ đã du hành khắp đó đây nhằm truyền bá giáo pháp của bậc đạo sư cho quần sanh mà không cầu mong được đền đáp lại bất kỳ điều gì.

“Hãy nỗ lực tinh tấn trên con đường hành đạo” là những lời di huấn cuối cùng của Ðức Thích Tôn không có một sự giải thoát hay thanh tịnh hóa nào có thể đạt được mà không có một sự nỗ lực của từng cá nhân.

Những lời cầu nguyệnvan xin để được ban phước không được chấp nhận trong đạo Phật và thay vào đó là hãy nỗ lực tu tập thiền định, đưa đền sự tự kiểm soát thân tâm, sự thanh tịnhchứng đắc giác ngộ. Mục đích của sứ mệnh của Ðức Phật là nhằm giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau bằng cách đoạn tận nguyên nhân của khổ và thuyết giảng chánh đạo đưa đến sự chấm dứt sanh tử nếu như những ai nỗ lực tu tập. Tuy nhiên nhân đây, Ðức Phật cũng thuyết những bài pháp liên quan đến sự tiến bộ về đời sống vật chất. Sự tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần thì rất cần thiết cho sự phát triển, thịnh vượng của một quốc gia. Vật chất không nên tách khỏi tinh thần, hoặc là sự tiến bộ về mặt vật chất cũng không nên đạt được bằng cách hy sinh sự tiến bộ về mặt tâm linh như đã được chứng kiến tại một số quốc gia đang trên đà phát triển cao về mặt vật chất trên thế giới hiện nay.
Pandit Nehru, cựu thủ tướng Ấn Ðộ, thường liên hệ Ðức Phật như là một người “con” vĩ đại nhất của đất nước Ấn Ðộ. Tiến sĩ S.Radhakrishnan một nhà lãnh đạo của Ấn Ðộ và cũng là một triết gia, khi "dâng hiến" những lời ca ngợi tán dương Ðức Phật, đã phát biểu như sau:

“Trong Ðức Phật Cồ Ðàm, chúng ta có một người thông minh khác thường từ phương Ðông độc nhất vô nhị, đối với sự ảnh hưởng trong tư tưởngđời sống của nhân loại, và rất hiếm khi nhìn thấy những vị sáng lập các tôn giáo truyền thống có một sự thông thái và sâu sắc như Ngài. Ngài thuộc về vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Ngài là người thừa hưởng chúng của tất cả những con người học thức. Rõ ràng Ðức Phật là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại”.

Trong tác phẩm “Ba nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử”, sử gia H.G.Wells viết như sau: “Trong Ðức Phật chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng một con người rất giản dị, tận tâm, đơn độc tranh đấu cho sự giác ngộ chân lý - một tính cách, con người rất sinh động, chứ không phải là một huyền bí. Ngài giảng dạy những chân lý rất thiết thực trong cuộc sống. Nhiều ý tưởng hay nhất trong xã hội của chúng ta hiện nay cũng rất tương hợp, gần gũi với lời dạy của ngài. Ngài dạy, tất cả khổ đau và những sự bất mãn là do tính ích kỷ sinh ra. Trước khi một con người có thể trở thành thanh tịnh vắng lặng, anh ta không thể sống vì nhu cầu của chính bản thân. Thì sau đó, anh ta mới có thể trở thành một bậc vĩ nhân. Ðức Phật cũng vậy, Ngài đã từ bỏ tất cả để sống một cuộc đời giản dị. Vì thế, xét về nhiều phương diện, Ðức Phật rất là gần gũi với chúng ta và những nhu cầu của chúng ta.”

“Ðức Phật thực sự là một con người nhưng con người này là thánh nhân. Là một vị Phật, ngài không phải tái sinh nhưng bằng hình thức thị hiện nơi cõi ta bà này để dẫn dắt chúng sanh tu hành giải thoát khỏi biển mê. Ngài thấy có những khả năng tiềm ẩn bên trong và năng lực sáng tạo của mỗi chúng sanh mà không cần đòi hỏi chính anh ta phải có một năng lực siêu nhiên nào đó. Ngài cũng khuyên chư đệ tử Ngài hãy thi đua với Ngài để chứng đạt Phật quả, bởi vì hạt giống Phật có sẵn trong mọi người (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).”

Ðức Phật được chư đệ tử Ngài tôn kính, đảnh lễ như là một bậc thầy mô phạm tối thượng, nhưng Ngài không bao giờ được tôn sùng như là một vị Thượng đế, thần thánh để cầu mong được những ân huệ (sự ban ân) về mặt vật chất cũng như tinh thần Ðức Phật để lại bất cứ gia sản nào cho những đệ tử của Ngài sau này thừa hưởng. Tuy nhiên, người ta nhận xét rằng không có một bậc thầy mô phạm nào mà quá vô thần giống như Ðức Phật nhưng rất giống một bậc cứu thế.

Chính Bertrand Russell gọi Ðức Phật là “một người vô thần vĩ đại nhất trong tất cả các thời đại”.

Nhưng chủ nghĩa vô thần ở đây không nên hiểu sai, hay đồng nghĩa với tinh thần phi tôn giáo. Ðể hình thành sự an lạc, hạnh phúc chân thật cho nhân loại, một bậc đạo sư thanh tịnh, giác ngộ thì tuyệt đối cần thiết trên thế giới suy đồi về mặt đạo đức này. Ðiều quan trọng khôngniềm tin tín điều mù quáng hay lễ nghi tôn giáo có thể mang lại lợi lạc cho đại đa số, nhưng điều cần thiết là một cuộc sống thanh tịnh và hữu ích đầy tình thương, lý trí và sự công bằng dựa vào những nguyên tắc cao thượng của những bậc đạo sư khả kính.

Theo giáo sư Foad “vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch tại Ấn Ðộ và Trung Hoa đã xuất hiện 3 vị Ðạo sư vĩ đại. Các Ngài cố gắng giúp cho nhân loại hiểu được những gì quan trọng cần phải làm những gì chân chánh nhằm mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân. Ðức Cồ Ðàm là một trong những bậc Ðạo sư quan trọng nhất trong số các ngài”.

Ðức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của giới luật như là phương tiện để đạt cứu cánh, giải thoát. Ngài khuyên bảo rằng chúng ta phải suy nghĩ chân chánh dựa trên tinh thần vị tha, lòng từ, vô hại; chánh ngữ mới có thể khiến cho chúng ta kiểm soát được những lời nói ác ý của chúng ta; chánh nghiệp bằng cách tránh sát nhân hoặc các loại động vật, không trộm cắp bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, không tà hạnh, và chánh mạng phải thoát khỏi sự bóc lột, biển thư hay những phủ cách phi pháp khác nhằm làm giàu cho bản thân. Tất cả, những nguyên tắc trên hình thành nên cơ sở nền tảng luân lý, đạo đức.

Ðức Phật gởi những bức thông điệp cao quý của Ngài về sự phục vụ vị tha, về nguyên tắc đạo đức, và lòng từ vô biên không chỉ riêng cho hàng quốc vương hoàng tử, quý tộc, trưởng giả giàu sang mà còn cho tầng lớp nghèo, người hạ tiện thấp hèn cùng đinh. Ngài đã tạo ra những cơ hội bình đẳng cho tất cả chúng sanh, và đề cao địa vị của con người. Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự tụ tập phát triển tâm linh được mở rộng ra cho tất cả trong bất cứ điều kiện nào của cuộc sống cao thượng hay thấp hèn, thánh hay phàm, trong sạch hay tội lỗi, cho bất kỳ ai muốn hồi đầu, quy về với chánh pháp và tìm cầu sự hoàn hảo trong cuộc sống.
Mỗi ngày Ðức Phật thuyết pháp cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia. Tuy nhiên, những gì Ngài dạy là một phần rất nhỏ so với những gì Ngài biết. Vào một dịp nọ, Ngài cầm một nắm lá trên tay và nói rằng những gì Ngài nói được so sánh với nắm lá trên tay của Ngài, và những gì Ngài không nói được so sánh như toàn bộ lượng lá trong một ngôi rừng. Ngài chỉ nói những gì được xem là cần thiết cho sự giải thoát của chúng ta.

Trong cuộc hành trình hằng ngày của Ngài, Ngài tiếp xúc với những cá nhân cần sự giúp đỡ của Ngài; Ngài hướng dẫn và khuyên bảo hàng đệ tử xuất gia của Ngài và Ngài thậm chí còn thuyết pháp cho hàng chư thiên (devas). Ngài nói pháp cho dân chúng và các giai tầng khác nhau trong xã hội, bao gồm vua chúa, quí tộc, trí thức v.v... Lời dạy của Ngài thực sự chứa đựng “bầu sữa tươi mát” cho “những em bé” và “miếng thịt” ngon cho người lớn. Trước khi Ngài thuyết pháp, Ðức Phật đảm bảo chắc chắn rằng sự đói khát cần được cung cấp nguồn sống, như thức ăn cho cơ thể cũng rất cần thiết cho nguồn thức ăn tinh thần. Ngài chăm sóc chu đáo người bệnh bằng đôi bàn tay của chính mình và Ngài tuyên bố rằng: “Những ai chăm sóc chu đáo bệnh nhân cũng là chăm sóc chu đáo chính Ngài”.

Ðức Phật xóa bỏ các giai tầng trong xã hội bằng cách mở ra cánh cửa Tăng đoàn cho tất cả các cá nhân khác nhau, không phân biệt tầng lớp giai cấp. Sự phân biệt duy nhất là việc phân chia cấp bậc trong việc lãnh thọ giới pháp như sadi (Samanera - 10 giới) Tỳ-kheo (250 giới) và sự chứng đắc dần dần của 4 quả vị thánh. Thậm chí sự thành lập Giáo hội Tăng đoàn cũng mang tính cách rất là dân chủ bình đẳng. Liên hệ đến vấn đề này, Lord Zetland phát biểu: “Và có thể xảy ra một điều rất ngạc nhiên đối với mọi người khi biết rằng trong sự hình thành giáo hội Tăng đoàn của Ðức Phật tại Ấn Ðộ cách đây hơn 2500 năm được tìm thấy những nguyên lý cơ bản của việc thực thi hệ thống quốc hội của xã hội chúng ta ngày nay”.

Tương tự như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Ðức Thế Tôn đã thành lập địa vị tôn giáo cho nữ giới - sự ra đời giáo hội Tỳ-kheo ni - mở ra một khuynh hướng mới cho tất cả nữ giới bị khinh miệt, đày đọa trong xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ. Do đó, Ngài cũng tạo ra sự bình đẳng cho địa vị nữ giới đối với sự tu tập đời sống tâm linh của họ. Ðức Phật cũng là người đầu tiên được biết đến trong lịch sử bằng mọi nỗ lực nhằm xóa bỏ giai cấp nô lệ bằng cách đưa ra khái niệm về tình huynh đệchân giá trị của con người. Ðức Phật phản bác sự giết chóc các loài động vật không may mắn để cúng tế thần linh, và mang lại tình thương cho chúng. Một Phật tử chân chánh nên thực hành lòng từ hướng đến tất cả chúng sanh, không phân biệt bất cứ chủng loại nào.

Chính lòng từ hình thành nên nền tảng cho tình huynh đệ của những quốc gia hoặc là một tình bạn hữu giữa các tôn giáo nhằm xóa bỏ tất cả các hàng rào ngăn cách chia rẽ giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Nếu những người tôn sùng nhiều niềm tin khác nhau không thể hoặc sẽ không có cùng chung một sân ga như tình huynh đệ, anh chị em v.v... chỉ vì họ thuộc những tôn giáo khác nhau thì chắc chắn rằng những vị đạo sư cao quý sẽ thất bại trong sứ mệnh của các Ngài vì sự nghiệp hoằng hóa độ sanh.

Ðức Phật là một người hoàn toàn khoan dung độ lượng. Sự khoan dung độ lượngkẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo. Do đó, Ðức Phật khuyên các đệ tử Ngài không nên giận dữ, bất mãn và thậm chí không vui vẻ khi những người khác nói xấu Ngài, chê bai phỉ báng những lời dạy của Ngài và các đệ tử Ngài. Ðức Phật dạy: “Nếu các vị tỏ ra không vui vẻ, hài lòng, thì các vị sẽ không chỉ thiêu đốt tất cả các công đức mình đã tụ tập khi nay, mà các vị còn không thể phán đoán suy xét liệu những điều họ nói là đúng hay sai.” Tiến sĩ S. Radhakrishnan đã phát biểu: “Một chúng sanh đã hoàn toàn giác ngộ, thậm chí sau 2500 năm của sự giác ngộ.”

Ðức Phật không thuyết giáo điều buộc người ta phải tin một cách mù quáng, không có tín ngưỡng hay niềm tin mà buộc người ta phải chấp nhậnkhông có lý trí suy xét, không có lễ nghi hình thức, mê tín dị đoan được quan sát để chính thức gia nhập đạo, và không có những nghi thức tế lễ thần linh và sự tự hành để chuộc lấy tội lỗi cho sự thanh tịnh hóa thân và tâm. Ðức Phật trình bày những chân lý hết sức đơn giản cho đại đa số và một nền triết lý hết sức thậm thâm vị diệu cho tầng lớp trí thức.

Ngài khuyên những người tìm cầu chân lý không nên chấp nhận bất cứ điều gì vì quyền uy của kẻ khác, nhưng hãy chấp nhận chúng khi đã xem xét kỹ lưỡng, và nên phán xét liệu điều đó đúng hay sai.

Trong suốt cuộc đời thuyết pháp độ sanh của Ngài cách đây hơn 2500 năm, không có một giọt máu nào rơi xuống đất trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp, và không có một sự cảm hóa nào được thực thi bằng những biện pháp ép buộc và bạo lực. Nhưng Ðức Phật là người truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất đã từng hiện hữu trên cõi đời này.

Những lời dạy thậm thâm vi diệu của Ngài đã lan tỏa và đang tiếp tục trên con đường lan tỏa khắp hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới bởi vì tính phổ quát, khoan dung độ lượng, dù là thời đại khoa học kỹ thuật cao như hiện nay. Giáo pháp của Ðức Phật đã đóng góp to lớn cho sự phát triển, thăng hóa về mặt văn hóa của nhiều quốc gia Á châu. Trên thực tế đã chứng minh rằng tất cả các quốc giaPhật giáo làm quốc giáo đã trưởng thành trong các nôi của Phật giáo.

Nhiều quốc gia đã ra đời và biến đi, nhiều triều đại được hình thành trên cơ sở quyền năngthế lực đã thịnh và suy, nhưng triều đại Phật pháp do Ðức Phật sáng lập dựa trên tình thương, lòng từlý trí vẫn đang thịnh hành và sẽ tiếp tục thịnh hành.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 116)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 145)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 216)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 197)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 177)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 206)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 431)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 789)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 692)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 671)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 797)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 795)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 914)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1571)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1020)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1171)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1172)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1933)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1494)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 987)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1605)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant