Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đặt Gánh Nặng Xuống

10 Tháng Mười Một 201706:45(Xem: 6092)
Đặt Gánh Nặng Xuống
ĐẶT GÁNH NẶNG XUỐNG

Thích Nguyên Hùng


Đặt Gánh Nặng Xuống
Lửa lòng mong cạn chốn am không… 


Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh, trói buộc vào lao ngục không giải thoát được như người nam thấy sắc của người nữ, hay người nữ thấy sắc của người nam”.1 

Kinh Pháp cú Bắc truyền, kệ 447 cũng nói: 

Cho bằng lửa dâm tà 
Con đường nào nhanh qua 
Cho bằng cơn phẫn nộ 
Lưới nào đan dày kín 
Cho bằng lưới ngu si 
Sông nào cuồn cuộn đi 
Cho bằng sông ái dục.
2 


Câu chuyện sau đây cho thấy để dập tắt được lửa lòng nếu khôngpháp hành đúng cách sẽ không dễ gì đạt được. Chuyện kể rằng, hồi đó, Tỳ-kheo Vaṇgīsa cùng với Tôn giả A-nan vào thành Rājagṛha để khất thực. Khi hai người đang đi trong một ngõ hẻm, Tỳ-kheo Vaṇgīsa trông thấy một thiếu nữ hết sức xinh đẹp, nhan sắc thù thắng, hiếm có ở đời, lập tức tâm Tỳ-kheo Vaṇgīsa bấn loạn, không giữ được bình tĩnh, lửa dục bừng bừng bốc cháy. Ý thức được sự nguy hiểm của dục vọng đang nhiệt não thân tâm, Vaṇgīsa liền cầu xin Tôn giả A-nan trợ giúp. Tôn giả A-nan liền đến bên cạnh lấy tay xoa đầu Tỳ-kheo Vaṇgīsa và khuyên thầy nên niệm Phật

Niệm Phật, không tham dục 
Nan-đà vượt dục kia 
Thấy trời, hiện địa ngục 
Ngăn ý, lìa năm đường. 

Tôn giả A-nan như vậy là vừa khuyên thầy Vaṇgīsa thực tập pháp môn niệm Phật, vừa nhắc lại sự kiện Đức Phật độ thầy Nan-đà3 - một trong những người có nhiều tâm luyến ái với nữ sắc, bằng cách dẫn lên cõi trời rồi dẫn xuống địa ngục cho thấy nhân quả của việc từ bỏ hay tham đắm nhục dục. Tuy nhiên, thầy Vaṇgīsa vẫn không trừ được lửa dục đang bừng cháy trong tâm. Ngay lúc đó, từ xa, người thiếu nữ trông thấy thầy Vaṇgīsa thì mỉm cười. Những tưởng nụ cười của người thiếu nữ như thêm dầu vào lửa, có thể thiêu đốt giới thân huệ mạng một đời người xuất gia, khiến thầy Vaṇgīsa mất ăn mất ngủ, tinh thần thêm bấn loạn; nhưng không, có thể nhờ phước từng làm thị giả, thầy Vaṇgīsa bỗng khởi lên niệm tưởng: “Cô này, với hình thể được dựng đứng bởi xương, được quấn chặt bởi da, cũng như cái bình vẽ, bên trong đựng đồ bất tịnh, lừa dối người đời, khiến sinh loạn tưởng”. 

Niệm tưởng này vừa khởi lên, thầy Vaṇgīsa liền có chỗ vào. Thầy tiếp tục tư duy thiền quán: “Dục này từ đâu sinh? Từ đất sinh chăng? Từ nước, lửa, gió sinh chăng? Nếu từ đất sinh, đất cứng chắc, không thể bị hư hoại. Nếu từ nước sinh, nước rất mềm, không thể nắm giữ. Nếu từ lửa sinh, lửa cũng không thể bị nắm bắt. Nếu từ gió sinh, gió không có hình, không thể nắm bắt.” Tôn giả lại nghĩ: “Tham dục này chỉ có từ tư tưởng sinh”. 

Thầy Vaṇgīsa tư duy về tưởng bất tịnh, liễu tri các pháp bất khả đắc, ngay tại chỗ, tâm hoát nhiên giải thoát khỏi hữu lậu, liền nói kệ rằng: 

Dục, ta biết gốc ngươi: 
Ngươi từ tư tưởng sinh. 
Nếu ta không tưởng ngươi, 
Ngươi sẽ không hiện hữu


Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng thầy Vaṇgīsa ra khỏi thành Rājagṛha, trở về vườn Trúc ở Kāraṇḍa, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên. Vaṇgīsa bạch Thế Tôn

- Nay con đã được lợi thiện, vì có chỗ giác ngộ

Thế Tôn hỏi: 

- Nay ngươi tự giác thế nào? 

Vaṇgīsa bạch Phật

- Sắc không bền vững, cũng không chắc chắn, không thể trông thấy, huyễn ngụy, không thật. Thọ không bền vững, cũng không lõi chắc, cũng như đám bọt trên mặt nước, huyễn ngụy, không thật. Tưởng không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật, cũng như quáng nắng. Hành không bền vững, cũng không lõi chắc, giống như thân cây chuối, không có thật. Thức không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy, không thật

Tôn giả lại bạch Phật thêm: 

- Năm thủ uẩn này không bền vững, cũng không lõi chắc, huyễn ngụy không thật

Bấy giờ Tôn giả Vaṇgīsa liền nói kệ rằng:

Sắc như chùm bọt nổi, 
Thọ như bong bóng nước
Tưởng giống như quáng nắng, 
Hành như thân cây chuối, 
Thức là pháp huyễn hóa
Đấng Tối thắng nói vậy. 
Tư duy điều này xong, 
Quán sát hết các hành, 
Thảy trống không, vắng lặng
Không có gì chân chánh, 
Đều là do thân này 
Đức Thiện thệ dạy vậy. 
Cần phải diệt ba pháp. 
Thấy sắc là bất tịnh
Thân này là như vậy, 
Huyễn ngụy không chân thật
Đó là pháp hư hại. 
Năm uẩn không bền chắc, 
Đã biết là không thật
Trở về đạo tối thượng


- Như vậy, Thế Tôn, đó là những gì mà con đã tỏ ngộ. 

Đức Phật liền ấn chứng:

- Nay ngươi nên biết, phàm là hành giả thì phải quán sát gốc năm uẩn này đều không chắc thật. Vì sao vậy? Khi Ta đang quán sát năm thủ uẩn này ở dưới bóng cây bồ-đề mà thành Vô thượng đẳng Chánh giác, cũng như những gì hôm nay ngươi quán.4 

Ngũ uẩn giai không

Thành Vô thượng đẳng Chánh giác là nhờ quán sát năm uẩn và thấy được tự tánh vô thường, vô ngã của nó. Do đó, đối với Phật giáo, quán sát chân chánh là quán sát ngũ uẩn giai không. Bởi khi quán sát như vậy “sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát”.

Người tu hành chỉ có được tâm giải thoát khi và chỉ khi nào hỷ tham, dục tham… được đoạn trừ. Mà dục tham chỉ được đoạn trừ khi tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật sắc là vô thường, vô ngã. Đối với sắc (thọ, tưởng, hành, thức) không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, tâm không giải thoát, thì không thể đoạn trừ khổ não, không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sinh, già, bệnh, chết. Do đó, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải luôn quán chiếu để thể ngộ 5 uẩn là vô thường: “Các ông hãy quán sát biết rõ những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì sắc ái liền được trừ. Khi sắc ái đã được trừ rồi, thì tâm khéo giải thoát. Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì thức ái liền được trừ. Khi thức ái đã được trừ rồi, thì Ta nói là tâm khéo giải thoát.”6 Quán sát như vậy được gọi là quán sát chân chánh. Hiểu biết như vậy được gọi là hiểu biết chân chánh, tức là liễu tri ngũ uẩn giai không! 
Mục đích của giáo dục 

Phật giáo Tôn giả La-hầu-la từng trăn trở: “Bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để cho thân thức này của con cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn?” 

Thấy biết như thế nào để không còn các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn có thể nói là mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo. Ta, của ta và những gì ta biết là chất liệu cho ngã mạn mà từ đó dòng sông sinh tử luân hồi cứ chảy dài vô tận. Mọi khổ đau hệ lụy của chúng sinh đều bắt nguồn từ tư duy hữu ngã. Do đó, vô ngã hay ngũ uẩn giai không như là cứu cánh tất yếu và là lý tưởng tu học mà người xuất gia tu đạo cần nỗ lực đạt được. Phật dạy: “Này La-hầu-la, hãy quán sát, những gì thuộc về các sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều không phải của tôi, không phải là tôi, nó không phải là tự ngã của tôi; nên bằng tuệ bình đẳngquán sát như thật như vậy. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều không phải của tôi, không phải là tôi, nó không phải là tự ngã của tôi; nên bằng tuệ bình đẳng quán sát như thật như vậy.

“Như vậy, này La-hầu-la, Tỳ-kheo nên biết như vậy, thấy như vậy. Người nào biết như vậy, thấy như vậy, thì đối với thức thân này cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộcngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo nếu như vậy đối với thức thân này cùng tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộcngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, thì Tỳ-kheo đó được gọi là người đoạn ái dục, chuyển đi các kết sử, chân chánh hiện quán đạt đến biên tế của khổ”.7 

Thế giới thành, hoại 

Đạt đến biên tế của khổ chắc chắn không thể bằng đôi chân, cho dù đôi chân ấy có thần lực nhanh chóng, giống như kiện sĩ, dùng mũi tên nhọn trong khoảnh khắc bắn xuyên qua chiếc bóng cây đa-la, có thể lên một núi Tu-di đến một núi Tu-di khác, cất bước từ biển Đông đến biển Tây và đi mãi đến trăm năm, ngàn năm hay lâu hơn nữa, cho tới khi mạng chung, rốt cuộc không thể vượt đến biên tế của thế giới, đến nơi không sinh, không già, không chết. Đó là kết luận dựa trên kinh nghiệm thực chứng khoa học không chỉ riêng Thiên tử Xích Mã mà còn là của nhiều giáo chủ các tôn giáo, các đạo gia, các nhà triết học… dù họ có tuyên bố hay không. Và Đức Phật cũng thừa nhận điều đó: “Không thể bằng đôi chân, vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết”. 

Nhưng, Đức Phật khẳng định: 

“Nay Ta chỉ bằng cái thân một tầm để nói về thế giới, về sự tập khởi của thế giới, về sự diệt tận của thế giới, về con đường đưa đến sự diệt tận của thế giới. Này Thiên tử Xích Mã, thế giới là gì? Là năm thủ uẩn. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Đó gọi là thế giới”. 

Rồi Đức Phật giải thích

“Thế nào là sự tập khởi sắc? Ái đương lai hữu, câu hữu với hỷ tham, ưa thích chỗ này chỗ kia. Đó gọi là sự tập khởi của thế giới

“Thế nào là sự diệt tận thế giới? Sự diệt tận của ái đương lai hữu, câu hữu với hỷ tham, ưa thích chỗ này chỗ kia; đoạn tận, xả ly không còn sót, vô dục, tịch diệt, tịch tĩnh. Đó gọi là sự diệt tận thế giới

“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới? Tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh trí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới

“Này Xích Mã, biết khổ thế giới, đoạn khổ thế giới; biết sự tập khởi thế giới, đoạn sự tập khởi thế giới; biết sự diệt tận thế giới, chứng sự diệt tận thế giới; biết con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, tu con đường đưa đến sự diệt tận thế giới. Này Xích Mã, nếu Tỳ-kheo nào đối với khổ thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự tập khởi thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc chứng; con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc tu; thì này Xích Mã, đó gọi là đạt đến biên tế thế giới, qua khỏi biển ái thế gian”.8 

Đặt gánh nặng xuống 

Suy cho cùng, chúng sinh không thể đi đến tận cùng biên tế của sự khổ, đạt đến biên tế thế giới, vượt qua biển ái thế gian cũng bởi mang quá nhiều gánh nặng nề: gánh nặng năm uẩn. Đức Phật giải thích

“Thế nào là gánh nặng? Là năm thọ ấm: Sắc thọ ấm, và thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.” 

Gánh nặng càng trở nên nặng nề khi chúng sinh yêu thích, đắm trước: 

“Thế nào là thủ gánh nặng? Đó là ái, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia”. 

Cho nên, muốn giải thoát, muốn đi đến tận cùng biên tế của sự khổ thì hãy đặt gánh nặng xuống, tức là “ái này, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ”.9 

Đức Phật kết luận

“Năm uẩn là gánh nặng
Kẻ gánh nặng là người; 
Mang lấy gánh nặng lên, 
Chính là khổ ở đời. 
Còn đặt gánh nặng xuống, 
Tức là lạc, không khổ, 
Đặt gánh nặng xuống xong, 
Không mang thêm gánh khác. 
Nếu nhổ khát ái lên, 
Tận cùng đến gốc rễ, 
Không còn đói và khát, 
Được giải thoát tịnh lạc!
10


Đặt gánh nặng xuống là nhổ khát ái lên đến tận cùng gốc rễ! Đó là việc cần làm, phải làm và duy nhất quan trọng đối với sự nghiệp của một người xuất gia học Phật. 

Thích Nguyên Hùng
____________________________

(1) Tăng nhất A-hàm, phẩm Con một. 
(2) Kinh Pháp cú Bắc truyền, Thích Đồng Ngộ - Thích Nguyên Hùng dịch, Nxb Tôn Giáo, tr.122. 
(3) Xem Tạp bảo tạng kinh, ĐTK/ĐCTT, T04, n°.0203. 
(4) Tăng nhất A-hàm, phẩm Tà tụ, kinh số 9. Xem thêm Tạp A-hàm, kinh số 1115. Pāli, S. 8. 4. Ānanda. 
(5) Tạp A-hàm, kinh số 1. 
(6) Tạp A-hàm, kinh số 22. 
(7) Tạp A-hàm, kinh số 465. S. 18. 21. Anusaya. 
(8) Tạp A-hàm, kinh số 1221, Xích Mã. S. 2. 3. 6. Rohita. 
(9) Tạp A-hàm, kinh số 73. 
10) Tương ưng bộ kinh 22. 22. Bhāra, HT.Thích Minh Châu dịch
Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Ba 201815:42
Khách
Em chào tất cả mọi người
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4976)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4363)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4650)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4696)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5851)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3290)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5254)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2916)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4127)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5278)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4259)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3317)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6356)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5323)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4615)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6226)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6099)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3881)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6030)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4635)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4780)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3381)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6271)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4938)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3537)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3463)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5660)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4228)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5974)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5232)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3664)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3749)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3703)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3525)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5359)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4002)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4354)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5815)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3118)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3060)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3850)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4846)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3563)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3032)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4565)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4714)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3428)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3981)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4721)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3560)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3600)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5124)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4151)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3286)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2993)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3032)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3099)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3094)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3467)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3995)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant