Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Chúng Ta Có Thể Biện Hộ Cho Chiến Tranh?

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10454)
08. Chúng Ta Có Thể Biện Hộ Cho Chiến Tranh?

CHÚNG TA CÓ THỂ BIỆN HỘ CHO

CHIẾN TRANH?

Sự khác biệt giữa cuộc tranh đấu của con chó và chiến tranh hay là giữa hai nhóm người chỉ là sự khác biệt về sự sắp xếp tổ chức.

Lịch sử nhân loại là một sự biểu hiện tiếp nối không ngừng của lòng tham lam, sân hận, kiêu căng, ghen tỵ, ích kỷvô minh của con người. Trong suốt 3000 năm qua, con người đã tham gia vào 15.000 cuộc chiến lớn. Liệu đó có phải là đặc tính của con người chăng? Vận mệnh của con người là gì? Và con người tiêu diệt lẫn nhau như thế nào?

Mặc dù con người đã khám phá và phát minh ra rất nhiều điều quan trọng, họ cũng đã tạo ra những tiến bộ rất to lớn hướng đến sự huỷ diệt nhân loại. Ðây là lý do giải thích vì sao có biết bao nền văn minh nhân loại đã hoàn toàn bị xoá sạch khỏi trái đất này. Con người hiện đại đã trở nên quá tinh vi trong nghệ thuật và những kỹ thuật tiến hành cuộc chiến tranh đến mức độ hiện nay họ có thể biến toàn thể nhân loại thành một đống tro tàn trong một vài giây. Thế giới đã trở thành một nhà chứa vũ khí quân sự hạng nặng bởi do kết quả của một trò chơi nhỏ được gọi là “tranh đua quân sự”.

Chúng ta biết rằng nguyên mẫu của vũ khí hạt nhân mạnh hơn so với bom nguyên tử đã được thả tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản vào năm 1945 đang được chuẩn bị kế hoạch. Khoa học gia tin rằng khoảng một vài trăm vũ khí nhiệt hạch sẽ theo dõi tiến trình tiến đến sự huỷ diệt toàn cầu. Hãy nhìn xem chúng ta đang làm gì cho nhân loại chúng ta!Hãy suy nghĩ xem loại hình phát triển khoa học như thế nào! Hãy xem sự ngu ngốcích kỷ của con người như thế nào!

Con người không nên cố thỏa mãn những bản năng hung hăng của anh ta. Con người nên nâng cao những giáo lý mang tính luân lý đạo đức của những bậc đạo sư và bày tỏ sự công bằng với luân lý đạo đức để mà hoà bình có thể toả sáng.
Những điều khoản, hiệp ước thoả thuận, công ước, và kế hoạch hòa bình đã được chấp nhận và hàng triệu ngôn từ đã được phát ngôn bởi vô số nhà lãnh đạo trên khắp thế giới. Họ tuyên bố rằng họ đã tìm ra giải pháp nhằm duy trìthúc đẩy nền hoà bình thế giới. Nhưng dù cho những nỗ lực hết mình của họ, họ vẫn không thành công trong việc làm mất đi nguy cơ đe doạ đối với nhân loại. Lý do là tất cả chúng ta không giáo dục thế hệ trẻ chúng ta hiểu một cách chính xáctôn trọng nhu cầu phục vụ vị tha và hiểm nguy của sự ích kỷ. Ðể đảm bảo có được nền hòa bình thật sự, chúng ta phải sử dụng mỗi một phương pháp sẵn có đối với chúng ta nhằm giáo dục thế hệ trẻ chúng ta thực hành tình thương yêu, thiện chikhoan dung đối với những người khác.

Thái Ðộ Của Phật Giáo

Người Phật tử không nên hung hăng thậm chí đối với việc bảo vệ tôn giáo của mình hay là một việc gì khác. Người Phật tử nên cố hết sức mình để tránh bất kỳ hành động bạo lực nào. Ðôi khi anh ta có thể bị ép buộc phải tham gia vào chiến tranh thay cho những người khác không tôn trọng quan điểm của tình huynh đệ giữa con người như Ðức Phật đã dạy. Anh ta có thể được kêu gọi gia nhập quân đội để bảo vệ đồng loại của mình khỏi giặc ngoại xâm và mãi cho đến khi nào anh ta chưa từ bỏ cuộc sống thế gian thì anh ta có trách nhiệm phải tham gia vào cuộc tranh đấu cho hòa bình và tự do. Trong những tình huống này, anh ta không thể bị đổ lỗi cho hành động trở thành một người lính hoặc là tham gia vào quân sự. Tuy nhiên, nếu mọi người đều nghe theo lời khuyên của Ðức Phật, thì chiến tranh sẽ không có lý do để diễn ra trên thế giới này. Ðó chính là trách nhiệm của mỗi con ngườihọc thức, văn hóa phải tìm ra tất cả những phương cáchbiện pháp khả dĩ đê giải quyết những cuộc tranh chấp, xung đột theo một phương thức hoà bình mà không tuyên bố chiến tranh để giết chết đồng loại của mình. Ðức Phật không dạy chư đệ tử Ngài đầu hàng bất kỳ hình thức quyền lực độc ác nào dù đó là con người hay các bậc siêu nhiên.

Quả thật, với lý trí và khoa học, con người có thể chinh phục tự nhiên, nhưng con người vẫn chưa đảm bảo được ngay cả mạng sống của mình. Tại sao mạng sống ấy lại rơi vào chỗ hiểm nguy? Trong khi tận tuỵ hết mình đối với lý trí và bị khoa học kiểm soát, con người đã quên rằng anh ta có một trái tim, lương tâm đã bị lãng quên và bị bỏ khô héo và bị tham đắm làm nhiễm ô.

Nếu chúng ta không đảm bảo được mạng sống của chính chúng ta, thì làm thế nào mà nền hoà bình thế giới có thể tồn tại? Ðể đạt được hoà bình, chúng ta phải tu tậprèn luyện tâm đối diện với những sự thật. Chúng ta phải khách quan và khiêm nhường. Chúng ta phải nhận ra rằng không có một con người cá nhân nào hay một quốc gia nào luôn luôn sai lầm. Ðể có được hoà bình chúng ta cũng phải chia sẻ sự giàu có về tài nguyên trên trái đất, không nhất thiết phải ngang bằng nhưng tối thiểu cũng phải vô tư. Không bao giờ có sự công bằng tuyệt đối nhưng chắc chắn sẽ có mức độ vô tư lớn hơn. Một điều đơn giản không thể tưởng tượng được là khoảng 5 % dân số thế giới hưởng 50 % tài sản của mình, hoặc là khoảng 25 % dân số thế giới được sinh sức ở mức độ tương đối khá và một số sống với mức độ quá cao trong khi 75 % dân số thế giới luôn luôn sống trong tình trạng nghèo đói. Hoà bình chỉ hiện hữu khi các quốc gia sẵn sàng chia sẻ và chia sẻ một cách vô tư, người giàu giúp đỡ người nghèo khổ và người mạnh giúp đỡ kẻ yếu đuối, vì vậy tạo nên một tình thương yêu và thiện chí mang tính quốc tế. Chỉ nếu và khi nào những điều kiện này được đáp ứng thì chúng ta mới có thể tạo ra một thế giới hoà bình không có lý do cho những cuộc chiến tranh xảy ra.

Sự điên rồ của những cuộc chạy đua vũ trang phải chấm dứt! Chúng ta nên xây dựng các trường học thay vì xây dựng tuần dương hạm (tàu chiến lớn), xây dựng bệnh viện thay vì vũ khí hạt nhân. Tổng số tiền và mạng sống con người mà nhiều quốc gia khác nhau đã phung phí trong chiến trận nên được đổi hướng để xây dựng kinh tế nhằm nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống.

Thế giới không thể có được hòa bình mãi cho đến khi nhân loại và các quốc gia từ bỏ những ham muốn ích kỷ, từ bỏ sự chạy đua vô minh và xoá tan lòng tham bản ngã sở hữuquyền lực. Sự giàu có không thể đảm bảo được hạnh phúc. Chỉ có tôn giáo mới có thể thực hiện sự thay đổi cần thiết của tâm và thực hiện một cuộc giải trừ quân bị thực sự. Ðó là việc chuyển hóa tâm thức nhân loại.

Tất cả các tôn giáo dạy con người không nên giết hại lẫn nhau; song bất hạnh thay giới quan trọng này lại bị lãng quên. Ngày nay, bằng những loại vũ khí hiện đại con người có thể giết chết hàng triệu người trong một giây. Ðiều đó có nghĩa là con số đó nhiều hơn so với những bộ tộc thời nguyên thuỷ thực thi hành động này trong khoảng thời gian một thế kỷ.

Rất bất hạnh thay, có một số người ở một số quốc gia mang trong mình những nhãn hiệu, khẩu hiệu và những biểu ngữ tôn giáo xông vào chiến trận. Họ không biết rằng họ đang làm ô nhục danh thơm của tôn giáo họ. Chính Ðức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo ! Do vì những tham ái dục lạc mà các bậc vua chúa tranh đấu với các bậc vua chúa, hoàng tử tranh đấu với hoàng tử, Tu sĩ với tu sĩ, thần dân với thần dân, mẹ tranh cãi với con cái, con cái tranh cãi với bố mẹ, anh em tranh cãi với nhau, bạn bè với bạn bè”.

Chúng ta có thể hạnh phúc mà tự hào rằng hơn 2500 năm qua chưa bao giờ có một sự bất hoà nghiêm trọng hoặc là một cuộc xung đột kinh khủng nào được giới Phật tử tạo ra đưa đến chiến tranh trên danh nghĩa tôn giáo này. Ðây là kết quả của một tính cách năng động về quan điểm khoan dung được chứa đựng trong giáo lý của Ðức Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 146)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 190)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 319)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 801)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 806)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 687)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 689)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 684)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 686)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1092)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1097)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1237)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1508)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 921)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1250)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1154)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant