Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Chúng Ta Có Thể Biện Hộ Cho Chiến Tranh?

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10463)
08. Chúng Ta Có Thể Biện Hộ Cho Chiến Tranh?

CHÚNG TA CÓ THỂ BIỆN HỘ CHO

CHIẾN TRANH?

Sự khác biệt giữa cuộc tranh đấu của con chó và chiến tranh hay là giữa hai nhóm người chỉ là sự khác biệt về sự sắp xếp tổ chức.

Lịch sử nhân loại là một sự biểu hiện tiếp nối không ngừng của lòng tham lam, sân hận, kiêu căng, ghen tỵ, ích kỷvô minh của con người. Trong suốt 3000 năm qua, con người đã tham gia vào 15.000 cuộc chiến lớn. Liệu đó có phải là đặc tính của con người chăng? Vận mệnh của con người là gì? Và con người tiêu diệt lẫn nhau như thế nào?

Mặc dù con người đã khám phá và phát minh ra rất nhiều điều quan trọng, họ cũng đã tạo ra những tiến bộ rất to lớn hướng đến sự huỷ diệt nhân loại. Ðây là lý do giải thích vì sao có biết bao nền văn minh nhân loại đã hoàn toàn bị xoá sạch khỏi trái đất này. Con người hiện đại đã trở nên quá tinh vi trong nghệ thuật và những kỹ thuật tiến hành cuộc chiến tranh đến mức độ hiện nay họ có thể biến toàn thể nhân loại thành một đống tro tàn trong một vài giây. Thế giới đã trở thành một nhà chứa vũ khí quân sự hạng nặng bởi do kết quả của một trò chơi nhỏ được gọi là “tranh đua quân sự”.

Chúng ta biết rằng nguyên mẫu của vũ khí hạt nhân mạnh hơn so với bom nguyên tử đã được thả tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản vào năm 1945 đang được chuẩn bị kế hoạch. Khoa học gia tin rằng khoảng một vài trăm vũ khí nhiệt hạch sẽ theo dõi tiến trình tiến đến sự huỷ diệt toàn cầu. Hãy nhìn xem chúng ta đang làm gì cho nhân loại chúng ta!Hãy suy nghĩ xem loại hình phát triển khoa học như thế nào! Hãy xem sự ngu ngốcích kỷ của con người như thế nào!

Con người không nên cố thỏa mãn những bản năng hung hăng của anh ta. Con người nên nâng cao những giáo lý mang tính luân lý đạo đức của những bậc đạo sư và bày tỏ sự công bằng với luân lý đạo đức để mà hoà bình có thể toả sáng.
Những điều khoản, hiệp ước thoả thuận, công ước, và kế hoạch hòa bình đã được chấp nhận và hàng triệu ngôn từ đã được phát ngôn bởi vô số nhà lãnh đạo trên khắp thế giới. Họ tuyên bố rằng họ đã tìm ra giải pháp nhằm duy trìthúc đẩy nền hoà bình thế giới. Nhưng dù cho những nỗ lực hết mình của họ, họ vẫn không thành công trong việc làm mất đi nguy cơ đe doạ đối với nhân loại. Lý do là tất cả chúng ta không giáo dục thế hệ trẻ chúng ta hiểu một cách chính xáctôn trọng nhu cầu phục vụ vị tha và hiểm nguy của sự ích kỷ. Ðể đảm bảo có được nền hòa bình thật sự, chúng ta phải sử dụng mỗi một phương pháp sẵn có đối với chúng ta nhằm giáo dục thế hệ trẻ chúng ta thực hành tình thương yêu, thiện chikhoan dung đối với những người khác.

Thái Ðộ Của Phật Giáo

Người Phật tử không nên hung hăng thậm chí đối với việc bảo vệ tôn giáo của mình hay là một việc gì khác. Người Phật tử nên cố hết sức mình để tránh bất kỳ hành động bạo lực nào. Ðôi khi anh ta có thể bị ép buộc phải tham gia vào chiến tranh thay cho những người khác không tôn trọng quan điểm của tình huynh đệ giữa con người như Ðức Phật đã dạy. Anh ta có thể được kêu gọi gia nhập quân đội để bảo vệ đồng loại của mình khỏi giặc ngoại xâm và mãi cho đến khi nào anh ta chưa từ bỏ cuộc sống thế gian thì anh ta có trách nhiệm phải tham gia vào cuộc tranh đấu cho hòa bình và tự do. Trong những tình huống này, anh ta không thể bị đổ lỗi cho hành động trở thành một người lính hoặc là tham gia vào quân sự. Tuy nhiên, nếu mọi người đều nghe theo lời khuyên của Ðức Phật, thì chiến tranh sẽ không có lý do để diễn ra trên thế giới này. Ðó chính là trách nhiệm của mỗi con ngườihọc thức, văn hóa phải tìm ra tất cả những phương cáchbiện pháp khả dĩ đê giải quyết những cuộc tranh chấp, xung đột theo một phương thức hoà bình mà không tuyên bố chiến tranh để giết chết đồng loại của mình. Ðức Phật không dạy chư đệ tử Ngài đầu hàng bất kỳ hình thức quyền lực độc ác nào dù đó là con người hay các bậc siêu nhiên.

Quả thật, với lý trí và khoa học, con người có thể chinh phục tự nhiên, nhưng con người vẫn chưa đảm bảo được ngay cả mạng sống của mình. Tại sao mạng sống ấy lại rơi vào chỗ hiểm nguy? Trong khi tận tuỵ hết mình đối với lý trí và bị khoa học kiểm soát, con người đã quên rằng anh ta có một trái tim, lương tâm đã bị lãng quên và bị bỏ khô héo và bị tham đắm làm nhiễm ô.

Nếu chúng ta không đảm bảo được mạng sống của chính chúng ta, thì làm thế nào mà nền hoà bình thế giới có thể tồn tại? Ðể đạt được hoà bình, chúng ta phải tu tậprèn luyện tâm đối diện với những sự thật. Chúng ta phải khách quan và khiêm nhường. Chúng ta phải nhận ra rằng không có một con người cá nhân nào hay một quốc gia nào luôn luôn sai lầm. Ðể có được hoà bình chúng ta cũng phải chia sẻ sự giàu có về tài nguyên trên trái đất, không nhất thiết phải ngang bằng nhưng tối thiểu cũng phải vô tư. Không bao giờ có sự công bằng tuyệt đối nhưng chắc chắn sẽ có mức độ vô tư lớn hơn. Một điều đơn giản không thể tưởng tượng được là khoảng 5 % dân số thế giới hưởng 50 % tài sản của mình, hoặc là khoảng 25 % dân số thế giới được sinh sức ở mức độ tương đối khá và một số sống với mức độ quá cao trong khi 75 % dân số thế giới luôn luôn sống trong tình trạng nghèo đói. Hoà bình chỉ hiện hữu khi các quốc gia sẵn sàng chia sẻ và chia sẻ một cách vô tư, người giàu giúp đỡ người nghèo khổ và người mạnh giúp đỡ kẻ yếu đuối, vì vậy tạo nên một tình thương yêu và thiện chí mang tính quốc tế. Chỉ nếu và khi nào những điều kiện này được đáp ứng thì chúng ta mới có thể tạo ra một thế giới hoà bình không có lý do cho những cuộc chiến tranh xảy ra.

Sự điên rồ của những cuộc chạy đua vũ trang phải chấm dứt! Chúng ta nên xây dựng các trường học thay vì xây dựng tuần dương hạm (tàu chiến lớn), xây dựng bệnh viện thay vì vũ khí hạt nhân. Tổng số tiền và mạng sống con người mà nhiều quốc gia khác nhau đã phung phí trong chiến trận nên được đổi hướng để xây dựng kinh tế nhằm nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống.

Thế giới không thể có được hòa bình mãi cho đến khi nhân loại và các quốc gia từ bỏ những ham muốn ích kỷ, từ bỏ sự chạy đua vô minh và xoá tan lòng tham bản ngã sở hữuquyền lực. Sự giàu có không thể đảm bảo được hạnh phúc. Chỉ có tôn giáo mới có thể thực hiện sự thay đổi cần thiết của tâm và thực hiện một cuộc giải trừ quân bị thực sự. Ðó là việc chuyển hóa tâm thức nhân loại.

Tất cả các tôn giáo dạy con người không nên giết hại lẫn nhau; song bất hạnh thay giới quan trọng này lại bị lãng quên. Ngày nay, bằng những loại vũ khí hiện đại con người có thể giết chết hàng triệu người trong một giây. Ðiều đó có nghĩa là con số đó nhiều hơn so với những bộ tộc thời nguyên thuỷ thực thi hành động này trong khoảng thời gian một thế kỷ.

Rất bất hạnh thay, có một số người ở một số quốc gia mang trong mình những nhãn hiệu, khẩu hiệu và những biểu ngữ tôn giáo xông vào chiến trận. Họ không biết rằng họ đang làm ô nhục danh thơm của tôn giáo họ. Chính Ðức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo ! Do vì những tham ái dục lạc mà các bậc vua chúa tranh đấu với các bậc vua chúa, hoàng tử tranh đấu với hoàng tử, Tu sĩ với tu sĩ, thần dân với thần dân, mẹ tranh cãi với con cái, con cái tranh cãi với bố mẹ, anh em tranh cãi với nhau, bạn bè với bạn bè”.

Chúng ta có thể hạnh phúc mà tự hào rằng hơn 2500 năm qua chưa bao giờ có một sự bất hoà nghiêm trọng hoặc là một cuộc xung đột kinh khủng nào được giới Phật tử tạo ra đưa đến chiến tranh trên danh nghĩa tôn giáo này. Ðây là kết quả của một tính cách năng động về quan điểm khoan dung được chứa đựng trong giáo lý của Ðức Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1640)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1622)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1026)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1506)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1474)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1666)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1923)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1516)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1349)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1367)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1539)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1138)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1263)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1270)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1692)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1636)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2968)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1812)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1360)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1218)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1274)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1401)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1316)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1917)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1677)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1884)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1812)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2384)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1778)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2109)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2186)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2293)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1849)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1969)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2027)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1951)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2588)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1940)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1879)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1939)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1884)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2154)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2295)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1962)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2070)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1865)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1901)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2405)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2315)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3979)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2467)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3181)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2465)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2041)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1794)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3301)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2340)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3020)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2698)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant