Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thời Đức Phật, Chư Tăng Có Được Nhận Tiền Hay Không? Nghiên Cứu Về Một Trường Hợp Trong Luật Thập Tụng.

15 Tháng Mười Một 201707:48(Xem: 6134)
Thời Đức Phật, Chư Tăng Có Được Nhận Tiền Hay Không? Nghiên Cứu Về Một Trường Hợp Trong Luật Thập Tụng.
Thời Đức Phật, Chư Tăng Có Được Nhận Tiền Hay Không?
Nghiên Cứu Về Một Trường Hợp Trong Luật Thập Tụng.


Chúc Phú

khat thuc


Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.

Những lời dạy của Đức Phật liên quan đến tiền bạc có thể tìm thấy trong kinh Phạm võng[i], kinh Sa-môn quả[ii], kinh Maṇicūḷam (S.iv,325)[iii], kinh Các uế nhiễm (A.ii,53)[iv] và  được quy định rõ ràng trong các bộ luật như luật Thập tụng[v], luật Tứ phần[vi], luật Ngũ phần[vii],  luật Ma-ha-tăng kỳ[viii], Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da[ix], Phân tích giới tỳ-kheo[x], Mahavagga[xi].

Mặc dù kinh, luật quảng diễn khác nhau, tuy nhiên quy định về vấn đề tiền bạc trong đời sống Tăng-già có thể được khái quát qua câu kinh:

Này Thôn trưởng, các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báuvàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc (S.iv,325)[xii].

 (Na hi, gāmaṇi, kappati samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ jātarūparajataṃ, na sādiyanti samaṇā sakyaputtiyā jātarūparajataṃ, nappaṭiggaṇhanti samaṇā sakyaputtiyā jātarūparajataṃ, nikkhittamaṇisuvaṇṇā samaṇā sakyaputtiyā apetajātarūparajatā)[xiii].

Như vậy quá rõ ràng, đã có nhiều bản kinh quan trọng cũng như các bộ luật căn bản không cho phép tỳ-kheo ở thời Phật tiếp nhận, cất giữ và sử dụng tiền bạc.

Thế nhưng, trong luật Thập-tụng, quyển thứ 39, phần Minh tạp pháp, phần 4, có một câu đơn lập mang nghĩa như sau:

Phật ở tại nước Xá-vệ, lúc đó vào ngày Tăng Bố-tát, phu nhân Mạt-lợi cúng tiền cho Tăng, các tỳ-kheo không nhận, nói là Phật chưa cho nhận tiền nhân lễ Bố-tát. Các tỳ-kheo không biết xử trí việc này thế nào nên bạch Phật, Phật bảo: Cho phép nhận. (Nguyên tác: 佛在舍衛國. 僧布薩時, 末利夫人施僧錢, 諸比丘不受: 佛未聽受布薩錢. 諸比丘不知云何? 是事白佛, 佛言: 聽受)[xiv].

So với những bản kinh và các bộ luật nêu trên thì điều này hoàn toàn trái ngược. Thậm chí ngay trong luật Thập tụng, nội dung của đoạn văn này đã mâu thuẫn với quy định trước đó[xv]. Vậy câu văn này cần được hiểu như thế nào để đúng với kinh, tương ưng với luật?

Theo chúng tôi, để hiểu đúng câu văn trong luật Thập tụng nêu trên, cần phải nghiên cứu các yếu tố liên quan, thể hiện trên ba phương diện: nhân thân của phu nhân Mạt-lợi, phu nhân Mạt-lợi và vật phẩm cúng dườngcuối cùngnghiên cứu về đặc ngữ hiến cúng Tăng-già.

1.    Nhân thân của phu nhân Mạt-lợi

Phu nhân Mạt-lợi (Mallikā) là một trong những đệ tử tại gia nổi tiếng được ghi nhận trong kinh Tăng Chi (A.iv.347)[xvi]. Theo Jataka số 415[xvii], bà vốn là con của một người làm tràng hoa và đã gặp vua Ba-tư-nặc (Pāsenadī) đang trên đường bôn tẩu. Cảm nhận vẻ nết na thuần hậu của người con gái chân quê, vua Ba-tư-nặc đã phong nàng làm chánh hậu.

Vốn thân cận Tam bảo trước khi trở thành hoàng hậu, vì trước đó bà đã cúng dường ba bát cháo cho đức Thế Tôn[xviii], Mạt-lợi phu nhân siêng năng học hỏi Phật pháp. Sau khi quy y Tam Bảo[xix], phu nhân Mạt-lợi là người hướng dẫn vua Ba-tư-nặc quy ngưỡng Tam Tôn[xx]. Trong kinh Tương Ưng (S.i,75) đã khẳng định sự hiểu biết về tự ngã của bà, trong cuộc tranh luận với vua Ba-tư-nặc, và đã được Phật xác chứng qua vần kệ:

Tâm ta đi cùng khắp,
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân hơn tự ngã.
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy.
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người[xxi].

Tương tự, trong kinh Tăng Chi (A.ii,202), nhân câu hỏi của bà: Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số nữ nhân, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít?[xxii] Từ câu hỏi này, Đức Phật đã chỉ bày cặn kẽ, để cuối cùng bà đã phát nguyện mạnh mẽ:

Và bạch Thế Tôn, bắt đầu từ nay, con sẽ không phẫn nộ, không có nhiều não hại, dầu cho bị nói nhiều, con sẽ không nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn. Con sẽ không biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Con sẽ bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc[xxiii] Từ sự phát nguyện này đã bước đầu hé lộ hạnh nguyện cúng dường, bố thí của phu nhân Mạt-lợi.

2.    Vài sự cúng dường của Phu nhân Mạt-lợi.

Từ nhân duyên cúng ba bát cháo cho Đức Phật nên được làm hoàng hậu, được ghi nhận trong Jataka số 415, thế nên Mạt-lợi phu nhân rất siêng năng trong hạnh bố thí, cúng dường.

Trước hết, luật Thập tụng đã ghi lại nhiều trường hợp cúng dường của phu nhân Mạt-lợi:

Phật tại nước Xá-vệ, lúc ấy phu nhân Mạt-lợi vào tinh xá Kỳ-hoàn nghe pháp. Thấy các vị tỳ-kheo thuyết pháp trong bóng tối, phu nhân Mạt-lợi liền hỏi: Tại sao không thắp đèn. Các vị tỳ-kheo đáp rằng: Không có đèn. Phu nhân liền thưa: Con xin cúng đèn. Các vị tỳ-kheo đáp: Phật chưa cho phép chúng tôi thắp đèn. Nhân việc này bạch Phật. Phật dạy: Ta cho phép[xxiv].

Một trường hợp khác:

Phật tại nước Xá-vệ. Lúc ấy phu nhân Mạt-lợi cúng dường cho chư Tăng pháp tòa cao. Các vị tỳ-kheo nói: Phật chưa cho phép chúng tôi thọ dụng. Nhân việc này bạch Phật. Phật dạy: Được phép dùng[xxv].

Trong những công đức cúng dường của phu nhân Mạt-lợi, có lẽ việc cúng dường lớn nhất là xây dựng tinh xá cúng cho Tăng. Luật ghi:

Phật tại nước Xá-vệ. Lúc ấy, phu nhân Mạt-lợi làm một giảng đường với nhiều thứ trang nghiêm để cúng dường chư Tăng. Các tỳ-kheo nói: Phật chưa cho phép chúng tôi dùng giảng đường với nhiều thứ trang nghiêm để ở. Các vị tỳ kheo không biết xử trí thế nào liền bạch Phật. Phật dạy: Được dùng giảng đường thanh tịnh này để ở[xxvi].

Xem ra, phu nhân Mạt-lợi đã phát tâm hộ trì chư Tăng với nhiều phẩm vật cúng dường như pháp và đã được Đức Phật hoan hỷ hứa khả.

Có thể nói, với một người tịnh tín Tam Bảo sâu dày, đã phụng cúng nhiều vật dụng đúng pháp cho Đức Phật, Tăng-già như phu nhân Mạt-lợi thì việc cúng dường các vật dụng phi pháp như tiền bạc là một điều kỳ lạ so với hiểu biết của bà. Để giải mã điều này, theo chúng tôi cần phải nghiên cứu về các thuật ngữ liên quan đến bố thí, cúng dường, ngõ hầu làm sáng tỏ nghi vấn nêu trên

3.    Tính đa nghĩa của đặc ngữ hiến cúng dakṣiṇā (दक्षिणा).

Truyền thống cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn vốn đã tồn tại trong xã hội Ấn Độ trước khi Phật giáo ra đời và được khu biệt bằng những thuật ngữ đặc thù trong Phạn ngữ. Cụ thể, khi nói đến bố thí ở nghĩa chung thì gọi là dāna (दान)[xxvii], khi bố thí mang nghĩa công ích, ích lợi cho cộng đồng, gọi là utsarga (उत्सर्ग)[xxviii], khi bố thí mang nghĩa cúng dường cho chư vị Bà-la-môn, thì gọi là dakṣiṇā (दक्षिणा). Dakṣiṇā với nghĩa gốc ban đầucúng dường tiền bạc cho một vị Bà-la-môn sau khi vị ấy cử hành một nghi lễ cúng tế[xxix].

Trong kinh điển Hán tạng, tùy theo từng thời kỳ phiên dịch, tùy theo ngữ cảnh kinh văn mà từ dakṣiṇā (दक्षिणा) được phiên âm thành Đạt-sấn (達嚫), Đạt-sấn (噠嚫)hoặc Đạt-sấn (達䞋). Theo khảo sát, ba cách chuyển âm ở Hán tạng vừa nêu thường được dùng lẫn lộn nhưng có cùng nguồn gốc từ chữ dakṣiṇā (दक्षिणा), và chuyển tải nhiều nghĩa khác nhau phụ thuộc vào ngữ cảnh.

Ở đây, sở dĩ có sự khác biệt trong ba tự dạng Đạt-sấn nêu trên là do khả năng, sự hiểu biết, quan điểm… của bộ phận đóng vai trò Thư tự (書字) trong hội đồng phiên dịch kinh điển. Theo Phật tổ thống kỷ, quyển 43, trong hội đồng dịch thuật thời xưa gồm có chín bộ phận, bộ phận Thư tự (書字) đứng hàng thứ tư, có vai trò lắng nghe văn chữ Phạn rồi viết thành chữ Hán (審聽梵文書成華字)[xxx]. Sự sai khác trong khi chuyển âm Phạn ngữ dakṣiṇā (दक्षिणा) sang chữ Hán là do bộ phận này.

Trước hết, dakṣiṇā mang nghĩa là cúng dường tiền bạc. Điều này có thể được tìm thấy trong kinh Hiền Ngu, qua đoạn văn sau:

Ba-bà-lê gom góp tất cả tài sản có được rồi tổ chức đại hội, cầu thỉnh tất cả các vị Bà-la-môn cúng dường thức ăn trân bảo mỹ vị. Thiết hội hoàn thành, đại thí đạt-sấn (大施噠嚫) mỗi vị năm trăm đồng tiền vàng[xxxi].

Bản kinh Tập trong kinh tạng Pāli tương đương kinh Hiền Ngu, đã dùng từ dakkhiṇā để chỉ cho trường hợp này[xxxii], tức chỉ riêng cho tiền bạc.

Tương tự, theo Nhất thiết kinh âm nghĩa, quyển thứ 55 và quyển 89 thì Đạt- sấn (噠嚫)có nghĩa là tiền của Tăng (僧錢)[xxxiii].

Như vậy, ở nghĩa thứ nhất, dakṣiṇā, hay Đạt- sấn (噠嚫)có nghĩa liên quan đến là tiền bạc.

Thứ hai, dakṣiṇā hay Đạt- sấn (達嚫) mang nghĩa là vật dụng cúng dường, là tài thí nói chung.

Theo Thích thị yếu lãm, quyển thượng: Phạn-ngữ gọi là Đạt-sẩn-noa, Trung Hoa gọi là tài thí. Nay lược chữ Đạt-noa, chỉ gọi là Sấn (嚫). Theo Ngũ phần luật, thọ thực xong thí y vật gọi là Đạt- sấn (達嚫)[xxxiv].

Theo, Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển 4: Đạt-sấn (達嚫), theo luận giải của tôn giả Bà-tu-mật (婆須密), gọi là Đàn sấn (檀嚫)[xxxv], Trung Hoa gọi là tài thí. Giải nghĩa rằng, pháp của bố thí, gọi là Đạt-sấn (達嚫)[xxxvi].

Như vậy, dakṣiṇā hay Đạt-sấn (達嚫) còn mang nghĩa là phẩm vật cúng dường nói chung, thường gọi là tài thí.

Thứ ba, dakṣiṇā, hay Đạt-sấn (達嚫) còn mang nghĩa là chúc phúc, chú nguyện.

Với Đức Phật, sau khi thọ thực xong, Ngài cũng chú nguyện công đức (噠嚫) cho thí chủ. Kinh Ngọc-da đã ghi nhận điều này[xxxvii]. Không những vậy, trong kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển thứ chín, đã ghi lại sự kiện, sau khi thọ thực xong, tôn giả Ca-diếp đã thuyết kệ chú nguyện, tán thán (達嚫)[xxxviii].Cũng trong bản kinh này, ở quyển 25, là trường hợp của tôn giả Thi-bà-la tán thán công đức cúng dường của một vị trưởng giả bằng những vần kệ mỹ diệu[xxxix].

Theo luật Tứ phần, việc tán thán chú nguyện (達嚫) sau khi thọ thực là bổn phận của một vị tỳ-kheo.

Luật ghi: Lúc ấy, tỳ-kheo sau khi ăn xong thì im lặng rời đi, người đàn việt không biết thức ăn ngon hay dở, đủ hay thiếu? Các cư sĩ khởi tâm cơ hiềm: Bọn ngoại đạo đều khen ngợi bố-thí, tán thán đàn-việt, vậy mà Sa-môn Thích tử ăn xong thì im lặng rời đi, làm cho chúng ta không biết thức ăn ngon hay dỡ, đủ hay thiếu. Các tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy: Không được ăn xong lặng lẽ bỏ đi. Phải nên vì đàn-việt tán thán công đức (達嚫), chí ít là một bài kệ[xl].

Như vậy, dakṣiṇā, hay Đạt-sấn (達嚫) còn mang nghĩa tán thán, chú nguyện cho thí chủ sau khi thọ nhận vật thực.

Có thể nói, trong tính đa nghĩa của ngôn ngữ, có những từ Phạn ngữ khi được chuyển dịch sang chữ Hán, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo ngữ cảnh xuất hiện. Cụm từ dakṣiṇā, hay Đạt-sấn (達嚫) là một trong những trường hợp này.

Nhận định.

Với một người am hiểu Phật phápthâm tín Tam Bảo như phu nhân Mạt-lợi thì việc cúng dường của bà phần lớn đều như pháp.

Theo ngữ cảnh của câu văn trong luật Thập tụng nêu trên, có khả năng câu: phu nhân Mạt-lợi cúng tiền cho Tăng (末利夫人施僧錢), thì cụm từ tiền cho Tăng (僧錢) nguyên tác có thể là từ dakṣiṇā hay Đạt-sấn (噠嚫).

Do đó câu văn trong luật Thập tụng có thể là: phu nhân Mạt-lợi thí đạt-sấn (末利夫人施噠嚫). Cấu trúc của cụm từ thí đạt-sẩn(施噠嚫)cũng từng xuất hiện trong kinh Hiền Ngu[xli].

Từ ba nghĩa cơ bản của đặc ngữ dakṣiṇā được phiên âm thành Đạt-sấn (達嚫); từ ý nghĩa Đạt-sấn (達嚫) được hiểu là cúng dường y vật, cụ thểtài thí (財施); từ những quy định cấm tỳ-kheo không được tiếp nhận, nắm giữ và sử dụng tiền bạc trong kinh, luật; do vậy, câu văn trong luật Thập tụng: phu nhân Mạt-lợi cúng tiền cho Tăng (末利夫人施僧錢) đúng nghĩa với kinh và phù hợp với luật nên đọc là:

Phu nhân Mạt-lợi cúng dường y vật (末利夫人施達嚫).



[i] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 18.

[ii] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.70.

[iii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch. NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 370-371

[iv] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.394-396

[v]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 卷第七. Nguyên văn: 若比丘自手取鐵錢, 突吉羅. 若取銅錢, 白鑞錢, 鉛錫錢, 樹膠錢, 皮錢, 木錢, 皆突吉羅.

[vi] 大正藏第 22 冊 No. 1428 四分律, 卷第八, 三十捨墮法之三. Nguyên văn:  若比丘自手捉錢, 若金銀, 若教人捉, 若置地受者, 尼薩耆波逸提: Tỳ-kheo nào, tự tay cầm tiền, hoặc vàng, bạc hoặc bảo người cầm, hoặc để xuống đất mà nhận, Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

[vii] Luật ngũ phần, HT. Thích Đỗng Minh, dịch, tập 1, chương 4, Xả đọa, NXB. Hồng Đức, 2011, tr.299

[viii] 大正藏第 22 冊 No. 1425 摩訶僧祇律, 卷第十, 明三十尼薩耆波夜提法之三. Nguyên văn: 若比丘自手捉生色, 似色, 若使人捉舉, 貪著者, 尼薩耆波夜提.

[ix]  大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第二十一, 捉金銀等學處第十八.Nguyên văn: 若復苾芻自手捉金銀錢等,若教他捉,泥薩祇波逸底迦.

[x] Phân tích giới tỳ-kheo, Tập 2, chuong7, Ưng xả đối trị, phần tơ tằm, giới điều 18. Tỳ-kheo Indacanda, dịch.

[xi] Đại Phẩm, chương Dược phẩm, [85] Cho phép sự tiên liệu về hành trình đường xa. Nguyên văn: này các tỳ khưu ta không nói rằng: “Vàng và bạc có thể được chấp nhận, có thể được tầm cầu bởi bất cứ cách thức nào.” Tỳ kheo Indacanda, dịch.

[xii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch. NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 371

[xiii] http://www.tipitaka.org

[xiv]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 卷第三十九, 明雜法之四.

[xv]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 卷第七. Nguyên văn: 若比丘自手取鐵錢, 突吉羅. 若取銅錢, 白鑞錢, 鉛錫錢, 樹膠錢, 皮錢, 木錢, 皆突吉羅.

[xvi] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 434.

[xvii] Kinh Tiểu Bộ, tập 4, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 660-661.

[xviii] Jataka 415. Trong kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 3, Mạt-lợi phu nhân được ghi nhận là người cúng dường Như lai đệ nhất. Xem, 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三,二. Nguyên văn: 我弟子中第一優婆斯, 供養如來, 所謂摩利夫人是.

[xix] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.556.

[xx] Kinh Tiểu Bộ, tập 3. Trần Phương Lan, dịch, NXB. Tôn giáo, 1015, tr. 296-309. Xem thêm, kinh Trung Bộ, kinh Ái Sanh, số 87.

[xxi] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch. NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 144.

[xxii] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.554.

[xxiii] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.556.

[xxiv]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 第三十八. Nguyên văn: 佛在舍衛國. 爾時末利夫人入祇桓聽法, 諸比丘闇中說法. 末利夫人語諸比丘: 何不然燈? 答言: 無燈. 夫人言: 我與燈. 答言: 佛未聽我等然燈. 是事白佛, 佛言:聽.

[xxv]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 第三十八. Nguyên văn: 佛在舍衛國. 時末利夫人施僧高座, 諸比丘言: 佛未聽我等受. 是事白佛, 佛言: 聽受

[xxvi]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 第三十八. Nguyên văn: 佛在舍衛國. 末利夫人作一講堂種種莊嚴施僧, 諸比丘言: 佛未聽我等受種種莊嚴講堂在中出入. 諸比丘不知云何? 是事白佛, 佛言: 此堂清淨, 可受在中出入.

[xxvii] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p. 474.

[xxviii] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield, MA: Nataraj Books, 2014, p. 187.

[xxix] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield, MA: Nataraj Books, 2014, p. 466.

[xxx]大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第四十三.

[xxxi]大正藏第 04 冊 No. 0202 賢愚經, 卷第十二, 波婆離品. Nguyên văn: 波婆梨自竭所有, 合集財賄, 為設大會, 請婆羅門, 一切都集, 供辦餚饍種種甘美. 設會已訖, 大施噠嚫, 一人各得五百金錢.

[xxxii]Suttanipātapāḷi. Pārāyanavaggo .Vatthugāthā. Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/

[xxxiii] 大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第五十五

[xxxiv]大正藏第 54 冊 No. 2127 釋氏要覽, 卷上.  Nguyên văn: 梵語達嚫拏. 此云財施. 今略達拏. 但云嚫. 五分律云. 食後施衣物名達嚫.

[xxxv] Thực sự ra, theo nguyên tác của tác phẩm: Tôn-bà-tu-mật Bồ-tát sở tập luận (尊婆須蜜菩薩所集論), quyển 2, thì Đạt-sấn (達嚫) ở đây mang nghĩa phước thiện (Puṇya: पुण्य). Nguyên văn: 施法果報是達嚫法.故曰說檀嚫法. Đạt-sấn (達嚫) mang nghĩa công đức có thể tìm thấy trong kinh Tạp-A-hàm, quyển 37, kinh số 1041.

[xxxvi] 大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, 四. Nguyên văn: 達嚫. 尊婆須密論. 作檀嚫. 此云財施. 解言. 報施之法. 名曰達嚫

[xxxvii] 大正藏第 02 冊 No. 0143 玉耶經

[xxxviii] 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第九, 四

[xxxix] 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五,二.

[xl] 大正藏第 22 冊 No. 1428 四分律, 卷第四十[11]九. Nguyên văn: 時有比丘, 食已默然而去, 彼檀越不知食好不好? 食為足不足? 諸居士皆譏嫌: 諸外道人皆稱歎布施讚美檀越, 而沙門釋子食已默然而去, 令我等不知食好不好? 足不足? 諸比丘白佛, 佛言: 不應食已默然而去, 應為檀越說達嚫, 乃至為說一偈.

[xli]大正藏第 04 冊 No. 0202 賢愚經, 卷第十二, 波婆離品.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1224)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1278)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1436)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1169)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1551)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2714)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1720)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1267)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1134)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1298)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1835)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1576)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1785)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1713)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2253)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1670)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2000)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1990)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2156)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1862)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1842)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1995)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1825)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1763)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1779)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2052)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2150)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1856)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1974)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1738)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1791)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2290)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2188)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3683)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2339)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 2997)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2368)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1941)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1708)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3203)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2235)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2587)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1936)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2898)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2536)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3425)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4103)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3592)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4153)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant