Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Đạo Phật Cho Nhân Loại

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10299)
19. Đạo Phật Cho Nhân Loại

ÐẠO PHẬT CHO NHÂN LOẠI

Tôn giáo này có thể được thực hành hoặc là nơi cuộc sống thế tục hoặc là viễn ly.

Một số người tin rằng Phật giáo là một hệ thống giáo lý qúa cao siêu và vi diệu mà những ngươì nam nữ bình thường trong thế giới của chúng ta không thể hành theo được. Và họ cũng quan niệm rằng người ta muốn trở thành một Phật tử thuần thành chân chánh thì anh ta phải xa lìa thế gian này để trú ẩn vào một nơi tự viện, hoặc một vài nơi yên tịnh nào đó để tu học.

Ðây là một quan niệm sai lầm đáng buồn rõ ràng là do sự thiếu hiểu biết về lời dạy của Ðức Phật. Một số lại vội vàng đi đến một kết luận hấp tấp và sai lạc như thế là do kết quả chỉ nghe người ta nói hoặc đọc cẩu thả, lấy lệ một tác phẩm Phật giáo do một số tác giả viết, mà những người này do vì không hiểu vấn đề trên mọi phương diện của nó,cho nên chỉ đưa ra một quan điểm phiến diện và hời hợt thiên vị về vấn đề đó. Giáo pháp của Ðức Phật không chỉ dành riêng cho giới cư sĩ tại gia sống với gia đình, bánh thánh đạo, một quy tắc, triết lý sống của Phật giáo, dành cho tất cả mọi người để hành trì, mà không có một sự phân biệt về chủng loại.

Song, không phải đại đa số chúng ta đều có thể xuất gia, hoặc là ẩn tu trong những hang động hay rừng rú. Giáo lý của Ðạo Phật cho dù có cao thượng hay thanh tịnh như thế nào đi nữa, nó sẽ trở nên vô ích đối đại đa số nhân loại trên thế gian này nếu họ không thể thực hành những lời dạy ấy trong cuộc sống thường nhật đối với thế giới đương đại. Nhưng nếu các vị hiểu được tinh thần của Phật giáo đúng như bản chất của nó (và không chỉ ở ngôn từ hình thức), thì chắc chắn rằng các vị có thể thực tậphành trì những lời dạy ấy khi đang hiện hữu như một con người bình thường.

Cũng có thể có một vài người cảm thấy dể dàng hơn và thuận tiện hơn để chấp nhận Phật giáo, nếu họ sống ở một trú xứ xa xôi, cách ly với đời sống của mọi người khác trong xã hội. Một số khác lại cảm thấy rằng sự ẩn dật, tránh né như thế là một sự ngu xuẩn, và áp chế toàn bộ con người họ về mặt vật lý lẩn mặt tâm linh. Do vậy, lối sống đó không thể đưa đến sự tiến bộ về đời sống tinh thầntrí tuệ của họ.

Chân chánh xuất gia không có nghĩa là lánh xa cuộc đờivề mặt vật chấtXá Lợi Phất (Sàriputra) vị đệ tử chính của Ðức Thế Tôn, nói rằng một con người có thể sống trong rừng, chú tâm vào việc thực hành những hạnh khổ hạnh, nhưng trong tâm vẫn chứa đầy tư tưởng bất tịnhnhiễm ô, cấu uế, trong khi đó một người khác có thể trú tại một ngôi làng hay nơi thành thị, không thực hành hạnh khổ hạnh, song tâm của anh ta có thể được thanh tịnh, và không có nhiểm ô, cấu uế” Trong hai loại người này, Xá Lợi Phất nói, người sống một cuộc đời thanh tịnh ở nơi làng mạc hay thành thị thì rõ ràng cao thượng hơn và vĩ đại hơn người sống ở nơi rừng núi.

Tín ngưỡng thông thường rằng để thực hành lời Phật dạy, con người phải trốn tránh cuộc đời, ẩn tu ở một nơi nào đó là một quan niệm sai lầm. Ðó thật sự là một sự chống lại lời dạy của Ðức Phật một cách vô thức. Trong nền văn học Phật giáovô số trường hợp liên hệ đến giới cư sĩ tại gia (ưu bà tắc, ưu bà di) sống một cuộc sống bình thường, nhưng họ có thể thực hành lới dạy của Ðức Phật trong đời sống thường nhật của gia đình họ một cách thành công và kết qủa là họ đã chứng đắc sự an lạc, Niết-bàn.Trường hợp chàng du sĩ Vacchagotta, một lần chất vấn thẳng với Ðức Phật rằng liệu người cư sĩ tại gia thực hành giáo pháp của ngài một cách thành côngchứng đắc những trạng thái tâm cao chăng. Ðức Phật phát biểu một cách quả quyết rằng không phải duy chỉ có một, hoặc hai, một trăm, hai trăm hoặc năm trăm, mà có nhiều hơn nữa giới cư sĩ sống tại gia thực hành lời dạy của ngài thành côngchứng đắc những trạng thái tâm cao thượng.

Ðối với một số người nào đó, họ có thể chấp nhận sống một cuộc sống yếm thế ở một nơi yên tịnh cách ly với tiếng ồn và cảnh náo nhiệt. Song chắc chắn đáng được tuyên dương, và can đảm hơn nếu họ thực hành theo lời Phật dạy trong lúc đang sống chung với đồng loại của mình, giúp đỡ họ, và sẳn sàng phục vụ họ. Ðối với một số trường hợp, có lẽ lợi ích hơn đối với một ai đó sống trong một môi trường yếm thế trong một thời gian nhằm mục đích phát triển tâm, và nhân cách của mình, như là sự tu tập giới luật và định để trở nên mạnh mẽ hơn sau này để nhập thế giúp đỡ và phục vụ cho đời. Nhưng nếu anh ta sống cả cuộc đời viễn ly, độc cưyếm thế, chỉ nghĩ về lợi lạchạnh phúc của bản thânsự giải thoát cho riêng mình, mà không hề bận tâm lo lắng cho đồng loại, thì chắc chắn đây không phải là phù hợp với lời dạy của Bậc Ðạo Sư được căn cứ trên cơ sở tình thương, từ bi và sự phục vụ tha nhân. Bây giờ người ta có thể thắc mắc : “Nếu một ai đó có thể tu tập theo Phật giáo giữa lúc đang sống một cuộc sống trần tục, thì tại sao Tăng già, Giáo hội, Tăng đoàn được Ðức Phật thành lập ? Giáo hội Tăng già tạo cơ hội cho những ai sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình không chỉ vì nhu cầu tiến bộ về mặt tâm linh mà còn là sự phục vụ cho tha nhân, chúng sanh. Một người cư sĩ tại gia không thể hy vọng để hy sinh cả cuộc đời mình nhằm mục đích phục vụ chúng sanh, trong khi đó một người xuất gia, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm của gia thất và những mối quan hệ ngoài đời khác thì không ở vào thế mắc kẹt để dâng hiến, tận tụy cả cuộc đời mình vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc, an lạc cho quần sanh, theo lời khuyên của Ðức Phật. Chính vì thế mà trong suốt tiến trình lịch sử tự viện Phật giáo đã trở thành không những là một nơi trung tâm đời sống tâm linh mà còn là một trung tâm giáo dụcvăn hóa. (Tiến sĩ Walpola Rahula, What the Buddha Taught) 

Và những điều này có thể mang lại lợi ích gì cho nhiều người?

Người xuất gia không thể mang lại sự thoải mãi về vật chất cho người tại gia, song vị ấy có thể cung cấp sự hướng dẫn phương pháp tu tập tâm linh cho những ai bị thế gian, những vấn đề tình cảm cuộc sống gia đình và nhiều vấn đề khác nữa làm phiền muộn. Người xuất gia dành trọn đời mình cho sự nghiệp theo đuổi con đường tìm cầu tri kiến, trí tuệ trong giáo pháp của Ðức Phật. Vị Tăng ấy giải thích giáo lý Ðức Phật theo một hình thức đơn giản hoá khiến cho những người tại gia không có học thức cũng có thể hiểu được những gì Ðức Phật đã dạy hơn 2500 năm qua. Và nếu người Phật tử tại gia được giáo dục tốt, kiến thức rộng, thì vị Tăng ấy hiện hữu ở đó nhằm thảo luận những phương diện sâu sắc hơn trong giáo lý uyên thâm của Ðức Phật để mà cả hai đều học hỏi lẫn nhau, rút ra nhiều kinh nghiệm, tri thức từ cuộc thảo luận đó.

Ở những quốc gia Phật giáo, phần lớn Tăng sĩ Phật giáo là người đứng ra đảm lãnh trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ. Kết quả của sự đóng góp của họ là những quốc gia Phật giáo làm quốc giáo đó, hầu hết dân chúng đều là những người có học thứchiểu biết nhiều về những giá trị tâm linh. Người xuất gia còn xoa dịu đi những ai đang trong tâm trạng buồn về tình cảm hoặc bị mất đi người thân bằng cách giải thích ý nghĩa của quy luật vô thường chi phối mọi sự vật và tất cả nhân loại đều phải chịu chung một quy luật tương tự như vậy.

Ngược lại, người Phật tử tại gia phải có trách nhiệm chăm sóc nhu cầu đời sống vật chất cho người xuất gia giúp cho họ có điều kiện yên tâm theo đuổi những nhu cầu tâm linh của họ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1527)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1473)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1057)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1448)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1385)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1348)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1682)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1889)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1406)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1073)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1403)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1971)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1533)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1365)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2820)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1356)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1395)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1699)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1648)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1609)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1451)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2616)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1594)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1392)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1409)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1592)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1528)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1418)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1394)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1490)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2169)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1524)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1471)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1587)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1811)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1501)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1363)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1640)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1380)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2342)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1927)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1651)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1725)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1596)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1920)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1647)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1697)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1553)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1514)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1301)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1229)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1504)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant