Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chẳng Phải Nhân Duyên - Chẳng Phải Tự Nhiên

19 Tháng Mười Hai 201707:42(Xem: 6304)
Chẳng Phải Nhân Duyên - Chẳng Phải Tự Nhiên
Chẳng Phải Nhân Duyên - Chẳng Phải Tự Nhiên 

Chân Hiền Tâm

Chẳng Phải Nhân Duyên - Chẳng Phải Tự Nhiên


Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”. Nếu có thể tìm thấy một pháp mà pháp đó hiện khởi hay mất đi không theo qui luật ấy, thì coi như qui luật ấy bị phá vỡ. Nhưng trước giờ, chưa ai tìm thấy được pháp nào tự sinh tự diệt ở thế giới này. Một thế giới mà ở đó không gianthời gian tồn tại.  

Nhân duyên sinh, tức không thể tự nhiên mà sinh. Con gà phải có nhân duyên quá khứnhân duyên hiện tại mới xuất hiện được, không có việc con gà tự nhiên xuất hiện. Nhân duyên sinh là vậy. Không phải tự nhiên sinh là vậy.  

Vậy mà trong kinh Lăng Nghiêm, Như Lai nói: “Chẳng phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên”. Tức không phải chỉ phủ định tự nhiên mà phủ định luôn cả nhân duyên.

Vì sao? Vì muốn chỉ ra chỗ chân thật. Tuy nói “chỗ” mà thật là không có chỗ nơi. Kinh Niết-bàn gọi đó là Phật tánh, luận Đại thừa Khởi Tín nói đến không và bất không của chân như. Tâm kinh Bát-nhã nói “Tướng không của các pháp không sinh không diệt…”. v.v…


Nghi cái chân thật đồng với tự nhiên của ngoại đạo

Nghi đó, là ngài A-nan nghi.

Khi nghe Phật nói về tánh Phật mả ai cũng có, ngài A-nan đã khởi mối nghi. Nghi cái tánh “chẳng sinh chẳng diệt, xa lìa tất cả hư vọng, điên đảo” mà Phật đã nói chẳng phải là pháp nhân duyên, như Phật từng nói ở núi Lăng-già. “Ở núi Lăng-già, Thế Tôn đã vì ngài Đại Huệ v.v… giảng rộng nghĩa này: Bọn ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn ta nói nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo kia”. Đương nhiên, cái nhân duyên Phật nói ấy không phải chỉ cho tánh Phật. Nhưng vì ngài A-nan hiểu chưa tới, chứng chưa qua, nên cứ lẫn từ chỗ này sang chỗ khác. Dù lẫn lời Phật như thế, A-nan vẫn có cái thấy của riêng mình: “Cái tánh chẳng sinh chẳng diệt, xa lìa tất cả hư vọng, điên đảo đó in tuồng chẳng phải nhân duyên mà cùng với thuyết tự nhiên của ngoại đạo”. Ngài nghĩ tánh Phật kia đồng với thần ngã tự nhiên của ngoại đạo.


Tánh Phật ấy chẳng phải tự nhiên

Đầu tiên, cần phải hiểu khái niệm “tự nhiên”.

Tự nhiên, là pháp vốn tự như vậy. Nếu nó tự như vậy thì không có gì làm nó mất đi hay hòa hợp. Xem ra việc ngài A-nan cho tánh Phật ấy là tự nhiên, không phải không có nguyên do. Vì tánh Phật cũng là thứ vốn có, không do nhân duyên sinh, nên Ngài A-nan qui nó về tự nhiên. Thực ra không thể qui. Vì sao?

Tự nhiênngoại đạo nói, chỉ cho thể trạng có. Một khi đã cho nó “vốn có” thì cũng đồng nghĩa cho rằng “trước sao sau vậy”, không thể biến khác.

Chỗ chân thật Phật nói, không phải không nhưng không phải có, nên tuy “trước sao sau vậy” mà cái “trước sao sau vậy” ấy lại không, có thể huân tập chủng tửtùy duyên hiện tướng.

Khác nhau một chút đó mà thành không như nhau.

Tánh Phật không phải tự nhiên (Phật dẫn tánh Phật ấy qua cái thấy để ngài A-nan dễ nhận) vì nếu tánh của cái thấy là tự nhiên, thì trước sao sau vậy, không thể tùy duyên mà thấy sáng thấy tối, thấy không, thấy bít v.v.. Kinh nói: “A-nan, ông hãy xét xem! Tánh thấy sáng suốt nhiệm màu này lấy cái gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể? Lấy hư không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể? Nếu lấy sáng làm tự thể thì khi tối đến không thể thấy tối. Nếu lấy hư không làm tự thể thì đáng lẽ không thấy ngăn bít…”[1]. Luận như thế thì biết cái thấy không có tự thể. Nếu có tự thể thì không nhập vào cái khác được. Nếu không nhập vào cái khác được thì không thể biến khắp. Nếu biến khắp (tùy duyên) được thì không có tự thể.

Đứng ở mặt Duy Thức mà nói, chỗ ngoại đạo cho là tự nhiên, thực ra chỉ mới thuộc phần vị của thức thứ 8. Còn tánh chân thật mà Phật nói là cội nguồn từ đó có thức thứ 8. Nói theo luận Đại Thừa Khởi Tín là, chân thể thanh tịnh do không tự tánh, bất giác mà sinh Tam tế Lục thô. Thức thứ 8 thuộc Tam tế, còn chỗ chân thật Phật nói là chân thể thanh tịnh. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Họ lấy bất giác làm Minh đế. Lấy Nghiệp tướng vọng động làm thần ngã. Mê lầmvô tánh...”[2]. Thế nên biết, Phật tánh tuy “vốn có” mà không đồng với thần ngã tự nhiên của ngoại đạo.  


Hết tự nhiên liền qua nhân duyên

A-nan lại thưa: “Tánh thấy nhiệm màu này nếu chẳng phải là tự nhiên thì nó là do nhân duyên sinh”. Đó là tư tưởng thường tình của người đời. Nghe không mập thì liền nghĩ đến ốm, nghe không no thì liền tưởng đến đói. Không biết rằng, không mập nhưng cũng không ốm, không no mà cũng không đói, cũng không phải là thứ lưng chừng giữa mập và ốm, no và đói. Không phải những tướng đó nhưng không lìa những tướng đó… Không hình dung được cái khoảng kỳ quái này nên A-nan lại thưa: “Tâm con vẫn còn chưa rõ. Xin hỏi Như Lai, nghĩa ấy thế nào cho hợp với tính Nhân duyên?”.

Phật trả lời: “Nếu nói nhân duyên thì cái thấy ấy nhân nơi sáng mà có thấy hay nhân nơi tối mà có thấy…? Nếu nhân nơi sáng mà có thì đáng nhẽ chẳng thấy được tối. Nếu nhân nơi tối mà thấy thì đáng nhẽ chẳng thấy được sáng”. Thực tế thì có khi ta thấy sáng, có khi ta thấy tối… thì biết cái thấy ấy chẳng nhân nơi sáng mà có, cũng chẳng nhân nơi tối mà có. Ấy là phá nhân sáng, nhân tối v.v… Kế là phá đến duyên. “Cái thấy này là duyên nơi sáng mà thấy hay duyên nơi tối mà thấy? … Này A-nan, nếu duyên nơi sáng mà có thấy thì đáng nhẽ chẳng thể thấy tối, duyên nơi tối mà thấy thì đáng nhẽ chẳng thể thấy sáng…”[3]. Thực tế thì có khi ta thấy sáng, có khi ta thấy tối, nên biết cái thấy này chẳng do duyên với sáng mà thấy, cũng chẳng do duyên với tối mà thấy. Chẳng do nhân chẳng do duyên mà có thấy, nên biết cái thấy ấy chẳng do nhân duyên mà hình thành. Phật kết luận: “Phải biết tánh nhiệm mầu sáng suốt của cái thấy chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên, chẳng phải…, lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp”.

Ngài A-nan lại nghi tiếp: “Đã chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cớ gì Thế Tôn thường chỉ dạy các Tỷ-kheo là tánh thấy có đủ bốn nhân duyên: Nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân tâm và nhân mắt?”.

Nhân hư không, là từ vật tới mắt phải có khoảng cách vừa đủ mới thấy. Xa quá hay cận quá v.v… đều không thể thấy.

Nhân ánh sáng, là phải có duyên ánh sáng thì mới thấy được vật, tối quá thì không thể thấy.

Nhân tâm, là muốn nói đến 4 thức: Nhãn thức, thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám. Khi mắt thấy được trần cảnh thì lúc ấy có đầy đủ 4 thức đó hoạt động

Nhân mắt, như mắt phải sáng mới có thể thấy, mù thì không thể thấy.

Hỏi như vậy vì ngài A-nan vẫn chưa phân định được cái thấy và tánh của cái thấy. Tánh cái thấy thì không (không tướng), không phải tự nhiên cũng không do nhân duyên mà thành. Còn cái thấy là do ba thứ căn- trần-thức duyên hợp mà thành. Tánh, không phải là tướng mà tánh thì không lìa tướng. Như Phật đã nói: “Lìa tất cả tướng mà tức tất cả pháp”. Cho nên, Phật trả lời: “Này A-nan! Đó là ta nói các tướng nhân duyên trong thế gian, không phải nói đến Đệ nhất nghĩa đế”. Đệ nhất nghĩa đế, chỉ cho tánh của cái thấy, chính là Phật tánh.

Cũng nói: “Này A-nan! Nay ông phải biết, khi thấy sáng thì cái thấy không phải là sáng, khi thấy tối thì cái thấy không phải là tối… Bốn nghĩa thành tựu, ông nên biết, khi thấy thấy, thấy chẳng phải thấy ấy, thấy còn lìa thấy, thấy chẳng thể bì kịp”[4].

Trong câu “Khi thấy thấy”, các nhà Sớ giải, người thì cho thấy trước là thể, thấy sau là dụng. Người thì cho thấy trước là dụng, thấy sau là thể. Nhưng nói “thể” mà khi căn đang còn trong mê thì thể vẫn đó mà đồng như không. Thể chưa hiện thì dụng cũng chẳng thanh tịnh. Vì thế, Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Chữ thấy đầu là giác ngộ, đó là thủy giác. Chữ thấy sau là chỉ cho cái thấy sáng, thấy tối v.v…”. Nghĩa là, thấy được cái thấy hiện nay, tức thấy được bản chất cái thấy ta đang dùng để thấy sáng thấy tối thì cũng đồng nghĩa với việc nhận ra thực tánh của cái thấy đó, nên nói “giác ngộ”. Thấy được thì “không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v…” vậy có cái gì để gọi là thấy? Nên nói “Thấy chẳng phải thấy ấy. Thấy còn lìa thấy”. Thấy như vậy thì cái thấy sáng thấy tối hiện nay của mình không thể thấy tới được, nên nói: “Thấy chẳng thể bì kịp”.

Lời dạy quá rõ ràng!

Cho nên, mọi cái thấy khi đang còn căn cảnh đây, chưa có cái thấy nào gọi là thấy được tánh của vạn pháp. So với cái thấy phân biệt của phàm phu thì cái thấy không phân biệt (hiện lượng) khi đang còn căn cảnh có thể chân hơn, nhưng chưa thể kết luận đó là cái thấy chân thật (kiến tánh). Bởi mọi thứ vẫn còn là kết quả của Vô minh nghiệp tướng.

Ngay với cái thấy không còn căn cảnh, là tướng Năng kiến nói trong luận Đại Thừa Khởi Tín (đồng với tướng Sở minh nói trong kinh Lăng Nghiêm), thì cái thấy ấy vẫn còn là sản phẩm của Vô minh nghiệp tướng. Nên Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Năm thứ hiện lượng không hạn cuộc nơi căn mà cũng không phải là cảnh thì tánh Như Lai tàng đâu không thường hiển lộ. Nhưng khi chưa trải qua giác ngộ, tuy là gá căn lìa trần mà chỉ đồng với lưu bố tưởng. Đâu thể lấy chỗ “gá căn lìa trần của giác ngộ” mà cho là “gá căn lìa trần của chỗ chưa giác ngộ”. Cái “gá căn lìa trần đã giác ngộ” này còn lìa “cái gá căn lìa trần chưa giác ngộ” thì “cái gá căn lìa trần chưa giác ngộ” trọn không thể bì kịp. Cho nên, trọn ngày thường ở trong giải thoát mà bị hạn cuộc nơi căn, vin nơi cảnh. Vậy nên biết, tánh Như Lai Tạng luôn luôn hiện tiền. Chớp mắt lầm qua liền rơi vào phân biệt. Bỗng gặp liễu duyên liền đồng với tánh giác”[5].


Vì sao tánh thấy chẳng phải là cái thấy?

Được Phật dạy cho biết “Tánh cái thấy không phải chính cái thấy” xong, ngài A-nan càng thêm mê muội, buồn khóc xin Phật: “Cúi mong Thế Tôn mở rộng lòng từ, bố thí con mắt đại trí tuệ, khai thị cho chúng con Giác tâm minh tịnh”.

Phật thương xót A-nan và đại chúng, nên chỉ ra hai thứ vọng thấy để giải nghi.

Này A-nan! Tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian do hai thứ vọng thấy điên đảo phân biệt. Chính ngay đó mà phát sinh, ngay nơi nghiệp mà lưu chuyển. Thế nào là hai thứ vọng thấy? Một là vọng thấy do biệt nghiệp của chúng sinh. Hai là vọng thấy do đồng phần của chúng sinh”[6]. 

. Vọng thấy do biệt nghiệpđồng phần

Vọng thấy do biệt nghiệp, được Phật ví dụ như người bị nhặm mắt mà thấy có vòng tròn bao phủ quanh bóng đèn, hoặc khi ấn vào mắt thì thấy mặt trăng thứ hai. Chỉ người đau mắt hoặc nhấn vào mắt mới thấy bóng tròn và mặt trăng thứ hai. Người không đau mắt hay không nhấn vào mắt thì không thấy các thứ đó. Vòng tròn và mặt trăng chỉ cho phần biệt nghiệp mà mỗi chúng sinh phải thọ nhận. Đó là những gì mà mỗi chúng sinh thấy và gặp trong thế giới của mình, thuộc về căn thân và hoàn cảnh của riêng mình. Sở thấy không lìa Năng thấy mà có.

Vọng thấy do đồng phần (nghiệp chung), là chỉ cho những người cùng đau mắt và cùng nhấn vào mắt. Những người này sẽ đồng thấy bóng tròn và mặt trăng thứ hai. Nhưng tùy mức độ đau mắt hay nhấn vào mắt (nghiệp riêng) mà có cái thấy sai khác về thế giớithân căn của mình. Phật nói: “Nếu một châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng chiêu cảm ác duyên thì chúng sinh trong nước đó xem thấy tất cả cảnh giới không lành. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng v.v… Chỉ nước đó thấy, còn chúng sinh nước bên kia vốn không thấy cũng không nghe”[7].

Nói chung, đồng phần thì gặp phải cảnh giới như nhau, không đồng phần thì chính là nghiệp riêng. Như đồng phần là nghiệp người thì sẽ có cái thấy, thân, căn và cảnh giới của loài người. Chỗ nào có nước sẽ thấy là nước. Không như nghiệp ngạ quỉ, chỗ nào có nước sẽ thấy là lửa hay máu. Trong cái chung ấy lại có cái riêng, như người ở Nam Định thì sinh hoạt, giọng nói và thấy cảnh giới khác người ở TP HCM v.v…

Chung và riêng cứ xuất hiện theo cách như vậy.

. Cái thấy do đồng phần hay biệt nghiệp thì đều vì mắt bệnh

Sau khi đưa ra các ví dụ để đại chúng hiểu về cái thấy đang thấy thân cănthế giới quanh mình chỉ do mắt bệnh mà thấy. Phật kết luận: “So với ông hôm nay dùng mắt xem núi sông cõi nước và các chúng sinh đều do cái thấy bệnh từ vô thủy tạo thành. Cái thấy và cảnh vật được thấy in tuồng như có trước mắt, vốn là lỗi Giác minh của ta đã phân năng sở[8]. Vọng thấy thì bệnh. Bản giác minh tâm biết được duyên thì không bệnh ”. Cái thấy và cảnh giới hiện nay ta đang có đều là hệ quả của cái gọi là đồng nghiệp hay biệt nghiệp. Không bị phần nghiệp này chi phối thì cái thấy không lỗi. Tuy lỗi, nhưng không lìa tánh thấy mầu nhiệm.

Nói theo luận Đại Thừa Khởi Tín thì chân thể thanh tịnh do không có tự tánh, bất giác mà sinh cái thấy hư vọng cùng cảnh giới hư vọng. Cái thấy hư vọng, chỉ cho tướng Năng kiến. Cảnh giới hư vọng chỉ cho thân, căn và thế giới của chúng hữu tình, mà phần tế là hư khôngtứ đại. Như vậy “Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, nhân duyên hòa hợp hư vọng có sinh, nhân duyên biệt ly hư vọng gọi là diệt. Mà không thể biết sinh, diệt, đi, lại… vốn là tánh chân như viên diệu không lay động Như Lai Tạng thường trụ diệu minh”. Cũng nói: “Tướng thì huyễn vọng mà tánh chân là cái thể giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu” [9].


Thu bốn khoa và bảy đại

Bốn khoa là ấm, nhập, xứ, giới.

Bảy đại là không, kiến, thức, địa, thủy, hỏa và phong đại.  

Có phần thu này, vì tướng thì huyễn vọng mà tánh chân là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm màu. Tuy huyễn vọng, nhưng do chấp mà tánh thể chẳng hiện, dụng thành ô nhiễm. Khổ từ đó phát sinh. Thu, để hiển bày tánh thể thanh tịnh. Thu được, cũng cho thấy các pháp đó không thật.

Theo Thập nhị duyên sinh, bắt đầu là Vô minh, do Vô minh mà có Hành. Hành là duyên khiến Thức hiện hành, từ đó có Danh sắc, Lục nhập v.v... Danh sắc tức là ngũ ấm. Gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thứ này che đậy chân tánh nên nói là ngũ ấm.

Sắc thân thì có sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó là sáu cửa nhận tiếp trần cảnh đưa vào thức thứ 8, nên gọi là Lục nhập. Có Lục nhập thì có sáu trần, gọi là Thập nhị xứ. Có sáu căn sáu trần thì có sáu thức, gọi là Thập bát giới. Tất cả đều từ Vô minh mà có. Vô minh là duyên khiến chân thể thanh tịnh hiện khởi các thứ.

Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài Phú-lâu-na hỏi Phật rằng: “Nếu tất cả các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới… trong thế gian đều là Bản nhiên thanh tịnh Như Lai tạng, cớ sao bỗng sinh ra núi, sống, đất liền và các tướng hữu vi thứ lớp dời đổi?”[10]. Phật đã thứ lớp trả lời. Từ việc hỏi ngài Phú-lâu-na về Tánh bản nhiên thanh tịnh vốn là minh hay vô minh, cho đến việc xuất hiện thế giới. Ngài Phú-lâu-na trả lời Tánh bản nhiên thanh tịnh vốn là minh. Vì nếu không phải minh thì trong quá trình hoàn diệt, ngài không thể chứng nghiệm được cái minh ấy. Do minh đã thành đối tượng được chứng biết, nên kinh gọi là Sở minh. Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.

Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới

Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giớiNhân hư không mà sinh ra dao động kiên cố cái sáng mà thành có ngăn ngại. Các loại kim bảo kia đều do minh giác lập ra tánh cứng chắc, nên có kim luân giữ gìn cõi nước. Phong đại và kim bảo cọ xát mà có lửa sáng làm thành tính biến hóa v.v… Nơi Sở minh, tự yêu thích cái sáng suốt của tánh minh, dòng yêu thích làm thành chủng tử, ấy là nguyên nhânthủy đại[11]Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh. Đai sư Hàm Thị nói: “Bốn đại chỉ là tâm. Tùy thế lực của tâm mà có nặng nhẹ. Sân hận nhiều, yêu thích ít nên ứng hiện ra ngoài có núi cao. Đập đá thì tóe lửa, nấu thì chảy ra nước. Yêu thích nặng, cố chấp nhẹ nên ngoài ứng hiện ra cỏ cây…”[12]. Quá trình này được ví dụ mắt nhặm mà thấy hoa đốm hiện ra trong hư không, hoặc như ngủ rồi mộng mà thấy mọi thứ, không thứ nào có chất thật như hiện nay đa số vẫn lầm. Mọi thứ đều là biến hiện của thức.

Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh. Gồm thu, vì tất cả đều không có thật thể. Nếu có thật thể thì không thể thu về. Như pháp thân thường trụ trùm khắp, chẳng thể nói thu. Thứ có thể thu về là hóa thân, do ứng duyên hiện tướng độ sinh (kinh Địa Tạng). Thất đại cũng như vậy, thảy đều không có thật thể. Thành dù là phản ánh của chân không hay là chỗ lưu lộ của chân như thì cũng chỉ là biến hiện của tự tâm. Nếu y tướng đó mà cho là chân thì lầm chẳng phải nhỏ. Tướng ấy không có thật thể. Chính nhờ cái không thật thể ấy mà các đại trùm khắp dung chứa lẫn nhau, không có chướng ngại. Thấy ngăn ngại như hiện nay là do phân biệt mà thành. Cho nên, trong kinh, sau mỗi phần luận để thu về, Phật đều kết luận: “Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tánh tự nhiên. Thật ra đều do ý thức phân biệt so đo, chỉ có lời nói suông, hoàn toàn không có nghĩa chân thật”.  

 Chân Hiền Tâm | Nguyệt san Giác Ngộ


[1] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ - Đại sư Hàm Thị - TT Thích Phước Hảo dịch.

[2] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ - Đại sư Hàm Thị - TT Thích Phước Hảo dịch.

[3] Kinh thì nói đến hư không và bít lấp, rồi nói sáng và tối cũng như vậy. Đây nói thẳng sáng tối để tiện theo dõi.

[4] 四義成就汝復應知。見見之時見非是見。見猶離見見不能及 . Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh quyển 2. Đại tạng kinh 19 số 945.     

[5] Dịch từ bản Hán cuốn Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Hàm Thị sớ.

[6] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ (Bản Hán văn).

[7] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ - TT Thích Phước Hảo dịch.

[8] Dịch từ câu “見與見緣似現前境, 元我覺明見所緣眚 ” trong cuốn Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh quyển 2. Đại tạng kinh 19 số 945.   

[9] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ (Bản Hán văn).

[10] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ – TT Thích Phước Hảo dịch.

[11]Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ – TT Thích Phước Hảo dịch.

[12] Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ quyển 2 – Đại sư Hàm Thị sớ – TT Thích Phước Hảo dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9145)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10670)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13398)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11292)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9207)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14304)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7162)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32323)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12935)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20721)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 38924)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7010)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8823)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6633)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9630)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9339)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 7924)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11577)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 15979)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9480)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12100)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8650)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15368)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7879)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17593)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8513)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8148)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10379)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15689)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17350)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7786)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12761)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7862)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8470)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9623)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10201)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 22982)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19147)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 9877)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8085)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 23978)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8649)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8316)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7853)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17563)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9348)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8083)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24113)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24405)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8256)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8115)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7692)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7720)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8875)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 25960)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13650)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27759)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19763)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7662)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7512)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant