Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

26. Quan Điểm Của Phật Giáo Về Hôn Nhân

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11355)
26. Quan Điểm Của Phật Giáo Về Hôn Nhân

QUAN ÐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ 

HÔN NHÂN

Trong đạo Phật, hôn nhân được xem như vấn đề cá nhân riêng tư chứ không phải là một trách nhiệm tôn giáo.

Hôn nhân là một sự quy ước của xã hội, một thể chế do con người tạo ra nhằm vì mục đích an lạc, hạnh phúc của con người, để phân biệt xã hội loài người với đời sống thú vậtduy trì tật trự và sự hoà hợp trong quá trình sinh sản.

Dù là những kinh điển Phật giáo không đề cập đến vấn đề chế độ một vợ một chồng hoặc là chế độ đa phu đa thê, song người Phật tử tại gia được khuyên hạn chế ở chế độ một vợ một chồng. Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân nhưng đưa ra những lời khuyên cần thiết dạy chư Phật tử tại gia làm thế nào để sống một đời sống hôn nhân hạnh phúc. Có những sự liên hệ phong phú trong những bài pháp của Ngài rằng người ta nên khôn ngoan và khéo léo trung thành với chế độ một vợ một chồng và không tham đắm vào sắc dục và bỏ vợ mình đi theo những người phụ nữ khác. Ðức Phật nhận ra rằng một trong những nguyên nhân chính của sự suy vi của người đàn ông là sự dính líu của anh ta đối với những người phụ nữ khác. (Kinh Parabhava)

Người đàn ông phải nhận ra những khó khăn, những thử thách và nỗi phiền phức mà anh ta phải chịu đựng chỉ vì để duy trì người vợ và gia đình. Những khó khăn này sẽ được thổi phồng lên nhiều lần khi đối diện với những tai ương. Biết được những yếu điểm của bản chất con người, Ðức Phật chế giới luật khuyên chư đệ tử Ngài tránh vi phạm giới dâm.

Quan điểm của Phật giáo về vấn đề hôn nhân rất là khai phóng. Trong Phật giáo, hôn nhân được xem như một vấn đề mang tính cá nhân và riêng tư chứ không phải là một trách nhiệm đối với tôn giáo. Không có quy luật nào trong Phật giáo buộc con người phải kết hôn, hoặc là ở độc thân hoặc là sống một đời sống hoàn toàn trinh bạch. Giới luật cũng không đặt ra cho người Phật tử buộc họ phải sinh con cái hoặc là điều chỉnh số lượng con cái mà họ phải sinh. Ðạo Phật cho phép mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền tự do quyết định cho chính bản thân mình về tất cả những vấn đề liên quan đến đời sống hôn nhân gia đình. Người ta có thể hỏi rằng tại sao Tăng sĩ Phật giáo không lập gia đình bởi vì không có luật nào đồng ý hoặc chống lại việc lập gia đình của họ. Lý do hiển nhiên rằng để được phục vụ cho nhân loại, người tu sĩ đã chọn một lối sống tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Những vị nào xuất gia tu tậptừ bỏ đời sống hôn nhân gia đình một cách tình nguyện để tránh xa những lời cam kết thế gian nhằm duy trì sự an lạc nội tâm và dành hết cuộc đời của mình phục vụ cho nhu cầu phát triển tâm linhgiải thoát cứu cánh của tha nhân. Mặc dù người xuất gia theo Phật giáo không cử hành một lễ cưới, song họ cũng có thể thực hiện tinh thần phục vụ của tôn giáo để mà ban phước cho cặp tình nhân mới cưới.

VẤN ÐỀ LY HÔN

Ly hôn hay ly dị không cấm theo quan điểm của Phật giáo mặc dù quy luật tất yếu chắc chắn là không thể phát sinh nếu những mệnh lệnh (giới luật) của Ðức Phật được tuân giữ một cách nghiêm khắc. Nam và nữ phải có quyền tự do chia ta nhau nếu họ thực sự không thể hợp tình hợp ý nhau. Chia tay là cách chọn lựa thích hợp nhất để tránh cảnh khổ đau của cuộc sống gia đình phải diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Ðức Phật còn đi xa hơn nữa là khuyên người đàn ông già không nên lấy vợ trẻ bởi vì người già và người trẻ không thể tương hợp nhau, sẽ tạo ra những vấn đề không đáng, sự bất hoà và sự suy vi (Kinh Parabhava).

Một xã hội phát triển thông qua một hệ thống những mối quan hệ xoắn vào nhau và tương quan tương duyên nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết hết lòng hỗ trợ và bảo vệ nhau trong một nhóm hay cộng đồng người. Hôn nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong mạng lưới những quan hệ của sự hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau này. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phải phải triển và phát huy dần dựa trên cơ sở của sự hiểu biết chứ không dựa trên sự ép buộc, gượng ép, xuất phát từ lòng chung thuỷ và thành thật với nhau chứ không chỉ hoàn toàn dựa trên sự ham muốn. Thể chế của hôn nhân cung cấp một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển của văn hoá, một sự hội nhập vui vẻ của hai cá nhân để được nuôi dưỡngthoát khỏi trạng thái cô đơn buồn tẻ, sự nghèo khổsợ hãi. Trong hôn nhân, mỗi bên phát huy một vai trò bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnhdũng khí đạo lý, mỗi bên biểu lộ sự công nhận vai trò hỗ trợ và đánh giá cao những kỹ năng của nhau. Không nên mang ý niệm trọng nam khinh nữ, hoặc trọng nữ kinh nam. Mỗi bên hỗ tương cho nhau, làm một người bạn đời dựa trên sự bình đẳng, biểu lộ sự nhã nhặn, hào phóng, yên tĩnh và nhiệt tâm với nhau.

VẤN ÐỀ HẠN CHẾ SINH ÐẺ, PHÁ THAI & TỰ TỬ

Mặc dù người đàn ông có quyền tự do kế hoạch hoá gia đình anh ta theo điều kiện sống của gia đình, song việc phá thai là không công bằng.

Người Phật tử không có lý do nào để chống lại việc hạn chế sinh đẻ. Họ tự do trong việc sử dụng bất kỳ phương pháp tránh thai truyền thống hay hiện đại. Những ai phản đối việc hạn chế sinh đẻ bằng cách nói rằng việc làm đó chống lại quy luật của Thượng đế, nên nhận ra rằng quan niệm của họ liên quan đến vấn đề này là không hợp lý. Trong vấn đề hạn chế sinh đẻ, những việc cần nên thực hiện là để ngăn chặn sự xuất hiện của một chúng sanh mới. Không liên quan đến việc sát sanh và không có tạo nghiệp bất thiện. Nhưng nếu họ đưa ra bất kỳ hành động nào để thực hiện việc nạo phá thai, thì hành động này là không đúng bởi vì nó liên quan đến việc sát hại sanh mạng hoặc là huỷ diệt một sự sống hữu hình hay vô hình. Do đó, việc phá thai là không công bằng.

Theo giáo lý Ðức Phật, năm điều kiện phải có mặt để đưa đến hành động sát sanh. Năm điều kiện đó là:

Một chúng sanh
Ý thức hay biết đó là một chúng sanh
Ý định giết hại
Tìm mọi cách để giết và
Kết quả là cái chết.

Khi một người nữ thụ thai, có một chúng sanh hiện hữu trong bào thai của cô ta và yếu ttó này đáp ứng điều kiện thứ nhất. Sau một vài tháng, cô ta biết rằng có một cuộc sống mới bên trong cô ta và yếu tố này thoả mãn điều kiện thứ hai. Sau đó, vì lý do này hay lý do khác, cô ta muốn muốn giết đi mạng sống này bên trong cô ta. Vì vậy, cô ta bắt đầu tìm kiếm một bác sĩ chuyên về việc phá thai để làm công việc đó và như thế, điều kiện thứ ba được đáp ứng. Khi bác sĩ phá thai thực hiện công việc, điều kiện thứ tư được thoả mãn và cuối cùng sanh mạng bị giết bởi vì hành động đó. Vì vậy, tất cả những điều kiện đều hiện hữu. Như thế, hành động này của người mẹ phạm vào giới thứ nhất là không được giết hại và việc làm này có giá trị như việc giết một mạng người. Theo Phật giáo, không có một lý do nào để nói rằng chúng ta có quyền tước đi mạng sống của những sinh vật khác. Trong một số tình huống đặc biệt, con người cảm thấy bị bắt buộc phải làm điều đó vì sự thuận tiện cho chính bản thân. Nhưng họ không nên biện minh hành động phá thai này bằng cách này hay bằng cách khác mà họ sẽ phải chịu những nghiệp quả xấu. Ơû một số nước, việc phá thai được xem là phi pháp, nhưng việc làm này là để vượt qua một số vấn đề. Những nguyên lý tôn giáo không bao giờ dâng nộp những thú vui của con người. Những nguyên lý ấy đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân loại.

TỰ TỬ

Tước đi mạng sống của chính mình cho dù trong bất cứ tình huống nào cũng đều được xem là không đúng với tinh thầnluân lý đạo đức. Chấm dứt sự sống của chính mình do vì sự bực mình hay thất vọng chỉ tạo nên khổ đau ngày càng nhiều hơn. Tự tử là một cách hèn nhát để chấm dứt những vấn đề trong cuộc sống con người. Người với tâm thanh tịnhkhinh an không bao giờ tự tử. Nếu người từ bỏ thế giới này trong một trạng thái tâm tán loạnbực mình, thì anh ta sẽ không thể tái sinh trong một điều kiện tốt hơn. Tự tử là một hành động bất thiện và không lành mạnh bởi vì nó được khích lệ bởi một tâm hồn tràn đầy tâm tham lam, sân hậnsi mê. Những người tự tử không biết cách đối diện với những vấn đề, làm thế nào để đối diện với sự thật của cuộc đời và làm thế nào để sử dụng tâm mình theo phương pháp chính đáng. Những con người như thế không thể hiểu được bản chất của cuộc đời và những điều kiện của thế gian.

Có một số người hy sinh mạng sống của chính mình cho những gì họ nghĩ rằng vì sự nghiệp cao cả và thánh thiện. Họ chấm dứt mạng sống của họ bằng những biện pháp như thế như tự thiêu thân, tự hy sinh, hoặc là chết đói. Những hành động như thế có thể được xếp vào những hành động can đảmdũng cảm. Tuy nhiên, theo quan điểm của Phật giáo, những hành động như thế không được xem như có tội. Ðức Phật đã chỉ rõ ràng rằng trạng thái tâm trong lúc tự tử sẽ dẫn đến khổ đau nhiều hơn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5178)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2663)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6136)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3052)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3097)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3302)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3230)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3299)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4553)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2727)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5206)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3856)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3842)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3207)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4127)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5037)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3512)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6741)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3959)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3218)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3094)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2958)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5855)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4629)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3490)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2894)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3306)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4422)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5715)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6632)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3708)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4538)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4604)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3969)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3399)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4611)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6038)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5831)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3634)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4682)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4456)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4519)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4259)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4593)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8209)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3918)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5720)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5188)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6813)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6172)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5986)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5798)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6278)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6774)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4958)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5568)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6387)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3782)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5411)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10458)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant