Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“

30 Tháng Mười Hai 201705:47(Xem: 7659)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“
Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ

Thích Như Điển

 

Ngày nay Internet phát triển một cách nhanh chóng và phổ cập khắp nơi trên hoàn vũ, hầu như không có ai là không nghe hay không biết đến phương tiện truyền thông nầy. Rất nhanh và tiện lợi muôn phần. Muốn tra cứu cái gì cũng có, muốn học cái gì cũng không thiếu. Vấn đề là ai đó có đủ can đảm để ngồi suốt ngày bên máy vi tính để đọc chữ trên màn ảnh không? Đó là vấn đề chính. Cứ ngỡ rằng khi máy vi tính phát triển nhanh thì những tổ hợp ấn loát kinh, sách, báo chí sẽ ế ẩm, nhưng đa phần những người lớn tuổi thì thích cầm quyển kinh hay quyển sách bằng giấy trên hai tay, đọc một cách trang trọng, thoải mái hơn và muốn đọc lúc nào cũng được, muốn nghỉ cũng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện gì cả. Trong đó có tôi là người chọn lựa cách thứ hai nầy.

Được một nhân duyên lớn là Thượng Tọa Thích Minh Định, Trụ Trì chùa Kim Quang tại Pháp trong 10 năm nay, trước đây Thầy đã tu học tại Vạn Phật Thánh Thành của cố Hòa Thượng Tuyên Hóa, nên tiếng Phổ Thông Thầy rất lão luyện; những kinh sách của Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng như: Nhân sinh yếu nghĩa (1 tập), Chú Đại Bi giảng giải (1 tập), Chú Lăng Nghiêm giảng giải (tập 1 và tập cuối), Kinh Pháp Hoa (1 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm (8 quyển trọn bộ), Kinh Hoa Nghiêm giảng giải (từ tập 1 cho đến tập thứ 25 trọn bộ). Cứ xem như mỗi tập là một tác phẩm đi, thì Thượng Tọa Minh Định đã dịch sang Việt ngữ tất cả là 44 quyển; có quyển dày đến gần cả 1.000 trang. Thầy đã gửi biếu đến các chùa sau khi đã in ấn, nên tôi mới có cơ hội làm quen với những dịch phẩm nầy của Thượng Tọa. Công đức nầy thật không nhỏ chút nào đối với những người học Phật, mong muốn được rõ biết hoàn toàn qua ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, thì những kinh sách nầy sẽ giúp cho các độc giả xa gần lãnh hội một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Quyển “Nhân sinh yếu nghĩa “tôi đã đọc xong, nhưng không điểm sách, vì lẽ đó là những lời giáo huấn đơn thuần của Ngài Tuyên Hóa cho các đệ tử xuất gia cũng như tại gia trong công việc tu tập hằng ngày tại Vạn Phật Thánh Thành. Đến quyển “Chú Đại Bi giảng giải” thì tôi đã đọc một cách say mê và cũng đã có điểm sách rồi, nhiều trang nhà trên thế giới đã đăng tải bài nầy. Nay sau khi đọc xong hai tập “Chú Lăng Nghiêm giảng giải tập I và tập cuối” trong nhiều ngày, tôi xin cung tuyên lại những gì đã thẩm thấu qua lời giảng giải của Ngài Tuyên Hóa trong suốt 192 trang của tập I (không kể phần được dịch ra tiếng Pháp của Sư Cô Thích Nữ Đàm Như) và tập cuối gồm 572 trang do nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam in ấn. Đây là những lời giải thích đầu tiên về Chú Lăng Nghiêm mà tôi biết được kể từ khi xuất gia năm 1964 đến nay 2017 cũng đã hơn 53 năm như thế. Quả là một điều vi diệu vô cùng và cũng trong hơn 53 năm ấy, tôi hành trì Chú Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa hay bất cứ nơi đâu khi tôi đi Phật sự, chưa bao giờ chểnh mảng trong gang tấc. Nghĩa là hầu như ngày nào tôi cũng có hành trì, đọc tụng Thần Chú nầy.

Về Kinh Lăng Nghiêm thì Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1966-1973) đã biên soạngiảng giải trong bộ Phật Học Phổ Thông khóa 6 và khóa 7 với tiêu đề là: Triết lý Đạo Phật hay là Đại cương Kinh Lăng Nghiêm gồm 264 trang thì tôi đã học, đã giảng suốt 6 tháng trường cho các Phật tử tại gia trong những Đạo Tràng Tu Bát Quan Trai giới tại Đức cũng như ở Âu Châu trong những năm 2015-2016, nhưng chỉ giảng chủ yếu của Kinh Lăng Nghiêm là Phật gạn hỏi về Tâm với Ngài A Nan, nhân việc Ngài A Nan bị nạn của Ma Đăng Già, chứ không giải thích từng câu từng chữ như trong Chú Lăng Nghiêm giảng giải của Ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa chia ra 5 đệ, từ đệ nhất đến hết đệ ngũ gồm có 554 câu tất cả, bao gồm 2.620 chữ được phiên âm từ Phạn ngữ ra Hoa ngữ và Thượng Tọa Minh Định đã chuyển dịch ra Việt ngữ một cách lưu loát, thông suốt hoàn toàn. Cứ mỗi một câu Thần Chú, Ngài Tuyên Hóa soạn ra 4 câu kệ để tả những công năngsức lực của Chú, nói ra sự diệu dụng chân thật của Chú. Ngài đã nói: “Tôi tả những bài kệ, đều có quan điểm và sự thấy pháp của tôi, tôi chân thật tả ra, từ trong tự tánh của tôi lưu xuất ra, cũng là sự kinh nghiệmnhận thức tâm thần lãnh hội đối với Chú”. Đọc qua đoạn nầy ở trang 522 của tập cuối, chúng ta thấy rõ được rằng Ngài Tuyên Hóa đã chứng nhập vào Lăng Nghiêm Tam Muội nên Ngài mới thấy được Pháp của chư Phật và từ tự tánh của Ngài đã lưu xuất ra. Thì đây chính là do pháp hành mà có, chứ không phải do pháp học, vì Ngài Tuyên Hóa hoàn toàn không biết Phạn ngữ. Giảng giải Thần Chú Lăng Nghiêm được như thế nầy, thì trên thế gian chỉ có một vị như thế chứ chưa có người thứ hai.

Về công năng của sự hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì Ngài Tuyên Hóa quyết đoán nơi trang 539 rằng: “Mỗi ngày bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ít nhất bảy đời làm viên ngoại, trưởng giả giàu có, quần áo, thức ăn uống không thiếu, tất cả hết thảy đều có đủ. Nếu nói về quả vị bậc Thánh hiền, bạn tiếp tục tụng Chú Lăng Nghiêm, tức là phát tâm đại Bồ Đề, không cần phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới đắc được pháp thân, cho nên nói: Diệu Trạm tổng trì Bất Động, Chú Thủ Lăng Nghiêm hiếm có trong đời”. Nhưng theo Ngài Tuyên Hóa, muốn được thành tựu như vậy thì ngoài việc trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hằng ngày, hành giả phải thực hành lục đại tông chỉ như ở Vạn Phật Thánh Thành thì mới mong có kết quả như ý. Đó là: Không cầu, không tham, không tranh, không lợi mình, không ích kỷ và không nói dối. Tất cả cũng từ lời Phật dạy mà ra, nhưng mỗi vị chủ trương thực hành giáo pháp của Đức Phật một cách miên mật khác nhau, tựu chung vẫn dẫn ta đến con đường chứng nhập Thánh quả. Trong Kinh Phật Bản Hạnh (tập 12 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh) Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng cho chúng ta biết rằng: Ngài Di Lặc tu trước Ngài, nhưng thành Phật sau 5 kiếp, vì lẽ sự phát Bồ Đề tâm và hành Bồ Tát hạnh của Đức Bổn Sư miên mật, liên lục hơn Ngài Di Lặc, nên Bồ Tát Di lặc trong hiện đời Ngài mới chỉ làm Nhứt Sanh Bổ Xứ ở cõi Nội Viên Đẩu Suất mà thôi. Chỉ ngần ấy việc, chúng ta cũng đủ thấy rằng, sự dụng công trong khi tu hành và việc phát Bồ đề tâm sẽ quyết định quả vị của chúng ta cho bây giờ và mai hậu.

Chú Lăng Nghiêm nầy Cố Hòa Thượng Tuyên Hóa đã giảng cho những đệ tử xuất giatại giaVạn Phật Thánh Thành tại Hoa Kỳ hằng tuần từ năm 1979 đến năm 1987. Tổng cộng hơn 8 năm và có hơn 554 lần giảng. Cũng có vài câu Thần Chú Ngài không giảng vì giống nhau như trong đệ tam hội và một vài nơi trong đệ ngũ; đồng thời có lẽ vì thời gian không có hay bận những Phật sự khác cần Ngài giải quyết nên có một số các bài kệ của những câu chú không được Ngài giải thích. Tựu chung, theo Ngài 554 câu Thần Chú nầy đều là những Pháp Hội của Chư Phật và chư vị Bồ Tát cũng như những quỷ vương. Ví dụ như đệ nhất hội, Ngài gọi là “Tỳ Lô Chân Pháp Hội”, nhưng Hội nầy Ngài mới giảng đến câu thứ 54 là Nam Mô Già Xà Câu La Gia, phần tiếp theo cho hết đệ nhất cũng như đệ nhị hội không thấy Ngài giảng; hoặc giả còn một tập giữa nữa mà Thượng Tọa Minh Định chưa dịch? Bắt đầu hội thứ ba Ngài gọi là: Hội Quán Âm hợp đồng; hội thứ tư là Hội Kim Cang Tạng Triết Nhiếp và hội thứ năm là Hội Văn Thù Hoằng Truyền. Riêng phần Thập Chú thì Ngài Tuyên Hóa đã giảng chung với Chú Đại Bi giảng giải rồi. Ngài cũng khẳng định rằng: “Nếu còn một người trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy thì thế giới không bị ma chướng quấy nhiễu và quả đất nầy vẫn còn tồn tại. Cho đến khi nào ở trên thế gian nầy không còn một người nào hành trì Chú Lăng Nghiêm nầy thì ma quái sẽ hiện hình và phá tan sự sống trên quả địa cầu nầy”

Giáo Sư Lê Tự Hỷ, người biết rành Phạn ngữ cũng đã lập luận rằng:“Sở dĩ một số bản kinh văn bằng tiếng Phạn được truyền vào Trung Quốc, sau đó được dịch sang Hán Văn và cuối cùng bản chánh bị thất lạc, có lẽ do bị thủ tiêu. Vì lẽ văn học Trung Quốc, người Trung Hoa luôn tự hào là giá trị cao sâu nhất thế giới, còn những văn học khác, kể cả Phạn ngữ, thuở ấy người Hán gọi là rợ Hồ ở phương Bắc, nên không được lưu truyền”. Lập luận nầy có thể khả dĩ được tin tưởng hơn những lập luận khác xưa nay đã từng có. Ví dụ những học giả Phật Giáo của Nhật Bản, khi nghiên cứu chỉ thấy hai văn bản bằng Phạn văn được dịch sang tiếng Hoa, Nhật và Hàn như Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, nhưng riêng bản Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì không còn nguyên bản Phạn văn nữa, nên họ nghĩ rằng Kinh nầy không phải do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Nhưng nếu lập luận như Giáo Sư Lê Tự Hỷ, thì chúng ta có cơ hội để truy nguyên lại từ nguyên ngữ là Phạn ngữ, đã được chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, vì lẽ nhân duyên để nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ nầy là Đức Phật hiển thị các thế giới cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy, vợ Vua Tần Bà Sa La phát tâm sau khi mạng chung sẽ sanh về một trong những thế giới khác của Đức Phật A Di Đà, mà nơi đó con người không còn luân hồi đau khổ nữa, như việc A Xà Thế đã giam cha mình vào ngục thất để cướp ngôi. Hy vọng một ngày nào đó các học giả sẽ tìm ra được những manh mối nầy để cho người đời sau không còn thắc mắc nữa.

Ở trang 561 Ngài Tuyên Hóa phán rằng: “Nhưng hiện tại vì sao có những vị học giả tào lao (chữ dịch của Thầy Minh Định) và những vị giáo thọ bụi bặm không thừa nhận Chú Lăng Nghiêm là do Đức Phật nói? Vì họ sợ Chú Lăng Nghiêm. Nếu họ thừa nhận là Phật nói, thì họ đứng không vững. Vì họ đều không giữ giới luật, kêu họ thừa nhận thì họ không thừa nhận. Tại sao họ không thừa nhận? Vì họ biết họ làm không được, cho nên họ nói đó là giả, như vậy họ mới có thể tồn tại, có thể nhận lầm mắt cá tưởng là hạt châu. Ở đây bịt tai ăn cắp chuông, làm những việc giả. Con mắt của các vị tức là cái nầy, không kia. Đâu phải Chú Lăng Nghiêm có gì đắc tội với họ, mà họ nói Chú Lăng Nghiêm là giả, họ làm người rồi chẳng tính gì nữa, người khác đã là giả, đã ở đó mặc quần áo của con người, ăn cơm của con người, nhưng làm quyến thuộc của ma vương. Những vị học giảgiáo thọ bụi bặm đó, nếu có bản lãnh thì kêu họ đến đàm luận với tôi (Ngài Tuyên Hóa), nhưng họ lại không dám đến”.

Trên đây là đoạn văn ở phần kết, khi Ngài Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm sắp xong và Ngài đã cho ta biết học giả là gì và hành giả là gì. Vậy chúng ta tin vào Đức PhậtChư Pháp Sư để từ đó chúng ta hành trì một cách miên mật hơn. Riêng phần tôi sau hơn 53 năm hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm miên mật như thế, thì tôi nhận định như thế nầy: Thần Chú là để cho Đức Phật và chư Phật hiểu biết lẫn nhau, ngay cả những vị Bồ Tát nghe còn không hiểu, thì làm sao chúng ta có khả năng hiểu được. Nó cũng ví như khi chúng ta dò tầng số của một đài nào đó trong Radio mà chúng ta muốn nghe, nhưng nếu tầng số ấy chưa bắt gặp được thì âm thanh, tiếng nói sẽ chẳng được phát ra và chúng ta chỉ nghe tiếng rè rè của máy mà thôi. Như vậy giữa tâm thức của chúng sanh và tâm của chư Phật, chư Vị Bồ Tát chúng ta chưa hòa nhịp được, nghĩa là chưa bắt đúng được tầng số của nhau thì làm sao chúng ta hiểu được lời của Phật. Nhưng chắc chắn một điều là sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ dò đúng tầng số kia để có thể hiểu được những mật ngữ của chư Phật và chư vị Bồ Tát như Hòa Thượng Tuyên Hóa đã hiểu và đã giảng giải cho chúng ta về Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm nầy.

Ngoài ra tôi cũng thường cho những ví dụ khác để dễ hiểu như sau: Kể từ khi chúng ta sinh ra được Mẹ cho uống sữa, sú cơm, ăn cháo, bánh mì v.v…từ khi mới lọt lòng cho đến khi trưởng thành, rồi già, rồi bịnh và chết. Mỗi ngày chúng ta ăn ba bữa chính, ngoài ra còn ăn dặm thêm vào lúc xế chiều. Có cả hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn vạn lần ngồi vào bàn ăn như thế mà có khi nào chúng ta định nghĩa cơm hay bánh mì là gì đâu? Thế mà chúng ta cứ ăn, cứ lớn lên, cứ sống trên đời nầy, nhưng nào ai có quan tâm đến nó làm gì. Nó cũng giống như hơi thở trong từng nhịp đập của con tim; nó như không khí ở trong bầu khí quyển, ngày đêm chúng ta hít thở không biết bao nhiêu lần, nhưng đâu có ai đếm thử chúng ta hít thở bao nhiêu lần trong một ngày, một tháng, một năm đâu? Thế mà chúng ta vẫn sống, vẫn làm việc và vẫn nhận không biết bao nhiêu niềm vui cũng như nỗi buồn của nhân thế nầy.

Tôi cũng thường hay ví dụ trong phần Tam Tự Quy về Tự Quy Y Pháp là: Đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh Tạng, trí tuệ như hải. Nghĩa là khi tụng kinh không phải để hiểu mà để thấm vào tâm mình những lời dạy của Đức Phật; còn để hiểu lời kinh khi tụng thì chỉ có những vị đã thâm nhập rồi, còn chúng ta muốn hiểu kinh, cần phải nghe chư vị Pháp Sư giảng giải trước, lúc ấy chúng ta sẽ hiểu rõ và khi tụng kinh, sẽ dễ thâm nhập hơn. Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, lời nguyện thứ 29 nói rằng: Tụng Kinh đắc tuệ. Nghĩa là người nào trì kinh, niệm chú thật miên mật thì trí tuệ sẽ phát sanh. Điều nầy rất dễ hiểu, nhưng ngày nay người ta chọn pháp học nhiều hơn pháp hành, nên kẻ chứng Đạo ít, người phân tích chủ quan thì nhiều. Nhìn lại lịch sử truyền bá Phật Giáo của Trung Hoa sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 cho đến nay ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, Việt Nam, Singapore, Hoa Kỳ thì rõ. Các Ngài Giác Quang (Hồng Kông) Ấn Thuận, Bạch Thánh, Ngộ Minh, Tinh Vân, Thánh Nghiêm (Đài Loan), Ngài Diễn Bồi (Việt Nam, Mã Lai); Ngài Tuyên Hóa (Hoa Kỳ) v.v… tất cả các Ngài đều qua công năng hành trì mà tạo nên được những vị thế vững chãi cho Phật Giáo Trung Hoa ở ngoài lục địa kể từ hơn 100 năm nay, hầu như chưa có Ngài nào không qua pháp hànhthành tựu được những sở tu và sở chứng của mình cả.

Riêng tôi chủ trương thì cả Pháp Học và Pháp Hành đều quan trọng như nhau, nên tôi hay nói rằng: “Sự học nó không làm cho người ta giải thoát được, nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát kia, không thể thiếu sự tu và sự học được” Đây cũng là tư tưởng của mình và suốt cuộc đời hành đạo của tôi gần 50 năm ở Nhật Bản cũng như tại Đức Quốc đều dựa theo phương châm nầy để tiến tu đạo nghiệp. Tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam trong nước hiện tại có nhiều phân khoa khác nhau để các sinh viên Tăng Ni chọn môn để học trong đó có môn Phật Giáo Việt Nam tại Âu Châu. Khi học như vậy, chắc chắn quý Thầy, Cô sẽ được học về hai khuynh hướng Phật Giáo tại đây. Đó là Phật Giáo truyền thốngPhật Giáo cải cách. Phật Giáo truyền thống luôn lấy hai thời công phu sáng chiều của chư vị Tổ Sư nhiều đời làm căn bản hành trì, đồng thời những quyển Luật Tiểu hay Đại Luật cũng là những giới thể căn bản mà người xuất gia không được phép xao lãng. Khuynh hướng cải cách là khuynh hướng nhập thế, mang Đạo vào Đời và biến đổi kinh văn cũng như giới luật hiện đại hơn để cho người Tây phương dễ hội nhập vào với nền văn hóa của Phật Giáo Việt Nam. Riêng tôi, gần 50 năm nay ở ngoại quốc, tôi vẫn chọn phương pháp truyền thống, bảo thủ cái hay, thu nhập cái tốt để hành trì và hướng dẫn chư Tăng Ni cũng như Phật tử tại Âu Châu nầy, người Việt cũng như người ngoại quốc tu theo Phật Giáo Việt Nam phải trải qua việc học và đọc tụng thuộc lòng Thần Chú Lăng Nghiêm trước khi thế phát xuất gia. Do vậy mà ngày nay chúng ta cũng không lạ gì, tại Âu Châu nầy có rất nhiều người Phật tử tại gia ăn chay trường, thọ Bồ Tát Giới tại giahành trì Chú Lăng Nghiêm miên mật hằng ngày, mặc dầu đang sống đời sống tại gia, nhưng tâm đã hướng đến một đời sống thoát tục.

Mãi cho đến bao giờ truyền thống vẫn là cái gì mà nên khắc ghi, nhắc nhở giống như Ngài Tuyên Hóa. Ngài giảng Chú Lăng Nghiêm bằng tiếng Phổ Thông, người Mỹ, người Việt, người Hoa, người Nhật v.v…muốn hiểu Thần Chú nầy phải  học và nói tiếng Phổ Thông. Nhờ vậy mà quý Thầy người Mỹ đã có thể dịch thẳng Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho  Shinshu Daizokyo) từ chữ Hán sang tiếng Anh, để từ đó những thế hệ đi sau hay sanh ra tại ngoại quốc có cơ hội tiếp xúc với Kinh văn nầy một cách dễ dàng tiện lợi hơn. Riêng Bản Kinh Thiền Môn Nhật Tụng chúng tôi đã cho dịch ra được 8 ngôn ngữ tất cả như: Hán Việt, Hán Cổ, Việt Nam, Đức, Anh, Ý, Nga và tiếng Phạn. Hy vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều ngôn ngữ Tây phương khác nữa được phiên dịch ra, trong đó thêm cả Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm thì thế giới nầy sẽ an ổn biết bao, khi những vị Càn Thát Bà, Dược Xoa, La Sát, các vị Quỷ Vương luôn luôn hộ trì chúng tathế giới nầy sẽ được yên bình thịnh trị. Mong rằng mỗi hành giả hành trì Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm sẽ là những viên gạch vững chắc bằng tâm linh để ngăn chặn cái ác và xiển dương cái thiện trên quả địa cầu nầy.

Viết xong vào lúc 12 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2017 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12258)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11028)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10915)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13371)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11783)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13667)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11910)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11175)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12198)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12406)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20601)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12424)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12456)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11715)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11596)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22425)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13578)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29677)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11544)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16743)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12001)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16836)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12079)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17925)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12639)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13168)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14760)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22625)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10586)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14049)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13869)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13717)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13867)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13940)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14837)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13854)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18412)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22805)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15398)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17327)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22416)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14264)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12584)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11172)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17768)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13213)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13106)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18798)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17181)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13504)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12920)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14700)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14658)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15880)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13516)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27436)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13230)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16731)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21391)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18814)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant