Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý Nghĩa Phước Hay Họa Ngày 23 Tháng Chạp Đưa Ông Táo Về Trời

08 Tháng Hai 201804:56(Xem: 6307)
Ý Nghĩa Phước Hay Họa Ngày 23 Tháng Chạp Đưa Ông Táo Về Trời
Ý Nghĩa Phước Hay Họa Ngày 23 Tháng Chạp
Đưa Ông Táo Về Trời

Thích Trí Giải

Ý Nghĩa Phước Hay Họa Ngày 23 Tháng Chạp Đưa Ông Táo Về Trời


Táo Quân (chữ Hán: 灶君); Táo Vương (灶王) hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và Trung Hoa được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà; Táo (灶) có nghĩa là bếp. Việt Nam và Trung Hoa có những truyền thuyết về Táo Quân khác nhau. [1]

Thờ cúng Ông táo theo Văn hóa Trung Quốc

Người Trung Quốc cho rằng trước kia mỗi tháng vua bếp lên trời một lần vào ngày tối (ngày cuối tháng âm lịch) để báo cáo về từng người trong mỗi gia đình nhưng sau này, mỗi năm vua chỉ lên trời một lần vào ngày 23 hoặc 24 tháng Chạp. Vào ngày đó, người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, cúng vua bếp bằng thịt, cá, rượu nếp, bánh kẹo. Ngoài ra còn có nước và cỏ khô cho ngựa của vua bếp "ăn" để bay và chở vua lên trời [2]

Thờ cúng Ông táo theo Văn hóa Việt Nam

Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày này là "Tết ông Công", lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời. [3]

-Người dân Việt Nam theo tập tục văn hóa thờ cúng Ông Táo để cầu phước, cầu tài, gia đình hưng thịnh. Rồi cứ mỗi dịp tết Âm lịch, người dân thôn Thủy Trầm, xã Tuy Lộc, huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) lại tất bật quăng chài, thả lưới thu hoạch cá chép đỏ để phục vụ nhu cầu của người dân trong ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời. Xem bài “Làng chuyên cung cấp "phương tiện" cho ông Táo”

-Họ phục vụ cho những người mê tín dị đoan mua cá làm phương tiện để đưa Ông Táo về trời để cầu phước. Trong sự tín ngưỡng văn hóa nhân gian Việt Nam, ngày 23 tháng chạp đã giết chết biết bao nhiêu sinh mạng (cá chép vàng) để cúng Ông Táo.

-Theo Văn hóa Phật giáo: Phước hay họa cũng từ nơi tâm, người Phật tử cần phảiChánh kiến thấy đúng như thật, không nên theo những văn hóa mê tín dị đoan tiếp tay kẻ xấu hại sinh mạng thì tổn phước, tổn lòng từ bi, thì tai họa ắt sẽ đến.

-Lòng từ bi của nhà Phật thể hiện văn hóa ăn chay, phóng sinh để tôn trọng sự sống, Đức Phật dạy “trong mỗi chúng sinh đều có Phật tính.” Mua cá chép vàng về cúng Ông Táo để cầu phước, nhưng việc làm đó hoàn toàn vô ích, chẳng những không có phước mà còn bị mất phước. Trong Kinh Phạm Võng Đức Phật dạy:

Này Phật Tử! “Nếu tự giết, dạy người giết, dùng phương kế giết, khen ngợi giết, thấy giết mà vui theo. Cho đến dùng thần chú để giết, nhân giết, duyên giết, phương pháp giết, nghề nghiệp giết. Cho đến tất cả các loài có mạng sống không được cố giết. Là Bồ Tát nên thường khởi tâm từ bi, dùng phương tiện cứu giúp bảo hộ tất cả chúng sanh. Mà trở lại buông tâm khoái ý sát hại sanh mạng, Bồ Tát này phạm Ba-la-di tội.” [4]

-Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy: “Cái quý nhất của chúng sinh đó là “thân mạng”, cái yêu quý nhất của chư Phật là chúng sinh, Hay cứu thân mạng chúng sinh tức là hay hoàn thành tâm nguyện của chư Phật”. Trong Kinh Phân Biệt Thiện Ác báo ứng:

Hỏi : Làm việc gì thâu hoạch quả sống lâu ?

Đáp: Có 10 điều . Những gì là 10 :

1. Lìa lỗi tự mình giết hại.
2. Lìa lỗi khuyên bảo người khác giết hại.
3. Lìa lỗi sướng thích đối với việc giết hại.
4. Lìa lỗi thấy người giết mình phụ trợ theo.
5. Cứu khỏi tội chết trong hình ngục.
6. Phóng thích thân mạng ( phóng sanh ).
7. Ban cho mọi loài pháp không sợ hãi .
8. Chẩn cấp cho người bệnh .
9. Bố thí thức ăn đồ uống .
10. Cúng dường đèn đuốc, cờ phướn.

Như vậy là 10 việc làm thu hoạch phước báo trường thọ.

-Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý, tổn hại lòng từ bi, chẳng những không có phước còn mang tội, nghiệp báo kiếp sau sinh mạng sẽ tổn thọ.

Trong Luận Đại Trí Độ: cũng có nói rằng: “Trong các việc ác, nghiệp sát lớn nhất. Giữa các việc lành, phóng sanh trên hết.” Vì vậy chúng taPhật tử cần phải hành theo lời Phật dạy, không mua cá chép để cúng Ông Táo, không theo văn hóa mê tín dị đoan, tức là chúng ta không có tiếp tay cho những người kia lợi dụng nuôi cá để bán trong ngày 23 tháng chạp

Phước hay họa do tâm tạo

Phước hay họa, thiện, ác cũng từ do từ tâm tạo, nếu tâm chúng ta hành thiện thì cuộc sống chúng ta sẽ an lạc, Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm ô nhiễm thì khổ não sẽ theo sau như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm thanh tịnh thì hạnh phúc sẽ theo sau như bóng với hình.” [5]

-Qua đó chúng ta thấy rằng họa hay phước do tâm tạo, muốn gia đình bình an, hạnh phúc, gia đạo hưng thịnh, không nên tin vào đấng Thần linh nào cả, mà hãy cần thiết lập tâm chúng ta một cách bền vững, bằng niềm tin vào Chánh PhápTrí tuệ để sống đúng đạo đức nhân bản bằng cách giữ gìn năm giới:

Mỗi người tự mình không sát sanh và khuyên người đừng sát sanh.
Mỗi người không trộm cắp và khuyên người đừng trộm cắp.
Mỗi người không tà hạnh và khuyên người đừng tà hạnh.
Mỗi người không nói dối và khuyên người đừng nói dối.
Mỗi người không uống rượu và khuyên người đừng uống rượu.

-Năm giới là nền tảng xây dựng đời sống hạnh phúc an ổn cho gia đìnhxã hội. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải có niềm tin vững chắc, khi phước đến không mừng, họa đến không lo. Cứ tùy duyên mà vui sống. Như khi ta gặp hoạn nạn, như bệnh hoạn đau yếu, đang sống cảnh cô độc, hoặc giả đang mang chứng bệnh nan y v.v… chẳng hạn, thì ta biết đó là do nghiệp quả của ta đã gây tạo, nên giờ đây ta phải trả. Nhờ ngày hôm nay chúng ta có tu, có phước báu để trả nợ kiếp trước, khi trả hết nợ không phải chúng ta chuyển họa thành phước sao?

-Chúng ta cố gắng tu hành làm thiện, tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú, hành thiền (phước vô lậu)…bố thí, cúng dường (phước hữu lậu) …thì cái chết có đến với chúng ta, cũng chẳng có gì phải lo sợ, vì chúng ta đã trả nghiệp nhân đời quá khứ, và ta biết rằng ai cũng phải bước vào cửa tử. Đây là con đường mòn mà tất cả mọi người già trẻ bé lớn gì cũng phải đi qua. Khi xả báo thân này thì phước báo tu hành trong kiếp này sẽ đưa chúng ta đến một cảnh giới an lành (Niết-Bàn) giải thoát khổ đau sinh tử. Như vậy, không phải là ta đã chuyển họa thành phước đó sao?

-Ngược lại chúng ta cầu giàu sang, phước báu, con cái bình an, gia đạo hưng thịnh…không biết tu hành tạo phước, theo những tập tục văn hóa mê tín dị đoan cúng vái Thần linh, sát sinh hại vật để cúng tế cầu khẩn, thì không phải là phước trong họa sao?

-Trong các Tôn giáo đa Thần hay nhất Thần, họ tin tưởng vào đấng Thần linhquyền năng, ban ơn gián họa, cho nên những tín đồ mới sát sinh hại vật để cúng tế Thần linh, ban phước….

-Khi Đức Phật thị hiện xuống Ấn Độ, Ngài đã dẹp bỏ những tư tưởng ban phước giáng họa của Thần linh dưới dạng mê tín dị đoan. Đức Phật dạy rằng: “phước họa đều do nghiệp mình tạo, mọi việc trên cõi đời này đều được xét xử công bằng dựa trên luật nhân quả, nghiệp báo.” Nếu người làm ác phải gánh quả báo xấu, làm thiệnđược hưởng kết quả tốt đẹp, không tin vào Đấng Thần linh nào cả:

-“Đừng tin tưởng một điều gì vì văn phong. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nhắc đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của Thánh nhân, đừng tin tưởng vào điều gì do ta tưởng tượng và lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy mình. Chỉ tin tưởng cái gì mà chính mình đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, là có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là mục đích tối hậu, thăng hoa cho con ngườicuộc đời, các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn."

Trong thời Phật còn tại thế Xá Lợi Phất đã thưa với Đức Phật rằng:

- “Xin Ngài chỉ dạy xem tại sao vị Tỳ kheo đó rất thông minh, mà lại bị quả báo luôn luôn bị bỏ sót, nên phải ăn cơm của Xá Lợi Phất chia cho”.

Đức Phật nói rằng:

“Vị Thầy này không phải mới tu, mà tiền kiếp đã là một Thượng tọa. Tuy có giới phẩm, nhưng vị này không bỏ lòng ích kỷ. Quý Phật tử nên suy nghĩ điều này, tu lâu, tạo được nhiều phước, nhưng tánh ích kỷ, ganh tỵ vẫn còn nguyên, thì vẫn phải trả quả báo.”

- Vì thế Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện, van xin khấn vái suông, vào những vị Thần linh, Ông Táo, Thần Tài, Thổ Địa, hoặc tử vi tướng số….

Chỉ có phước báu mới có thể giúp đỡ con người được tai qua nạn khỏi, được bình yên may mắn. Phước báu có được do những việc làm phước thiện, tốt lành, lương thiện, chẳng hạn như: ăn chay, bố thí cúng dường, đi chùa lễ Phật, ấn tống kinh sách, cứu người giúp đời, tụng kinh niệm Phật, trì chú thiền quán, trì giới nhẫn nhịn. Phước báo không phải mùa cá chép vàng, vàng mã,…để cúng tế Thần linh ban phước một điều hết sức phi lý trái chân lý. Vì vậy người Phật tử của chúng ta không bao giờ theo những văn hóa mê tín dị đoan như thế

 

Chú thích:

[1] Tự điển Bách Khoa Toàn Thư

[2] Xem bài Người Trung Quốc ăn Tết ra sao?

[3] Nguồn gốc và ý nghĩa những từ ngữ Tết

[4] Kinh Phạm Võng, Bồ Tát Tâm Địa Phẩm lược sớ, Thích Nữ Trí Hải Việt dịch giới thứ nhất

[5] Kinh Pháp Cú số 1 phẩm song yếu;

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 141)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 210)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 145)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 192)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 175)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 203)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 556)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 430)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 524)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 764)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 783)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 690)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 667)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 796)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 793)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 788)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1038)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 911)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1570)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1019)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1169)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1165)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1226)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1932)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 911)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1491)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1249)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 986)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1604)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant