Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tôn Giả Thi-bà-la (尸婆羅 = Sīvali) Vị “Thần Tài” Đích Thực của Phật Giáo

21 Tháng Hai 201810:58(Xem: 8485)
Tôn Giả Thi-bà-la (尸婆羅 = Sīvali) Vị “Thần Tài” Đích Thực của Phật Giáo

TÔN GIẢ THI-BÀ-LA (尸婆羅 = SĪVALI)
VỊ “THẦN TÀI” ĐÍCH THỰC CỦA PHẬT GIÁO

Bậc đệ nhất phước đức, tỳ-kheo Thi-bà-la [1]

Chúc Phú.

thanh-tang-sivaliƯớc nguyện về một đời sống no đủ và thịnh vượng là khát vọng cháy bỏng của con người ở mọi thời kỳ. Nhằm đáp ứng một phần ước nguyện đó, nhiều tôn giáo đã xây dựng và định hình nên những vị thần chuyên trách, thường gọi là thần tài.

Thần tài trong Phật giáocụ thể ở Phật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.

Với Phật giáothần tài được hiểu ở đây là vị Thánh đệ tử (ariya-sāvaka) có nhân duyên tạo ra phúc lộc sâu dày (lābhagga). Và, trong lịch sử kinh điển, thực sự vị đó là ai?

Bước đầu khảo sát thư tịch Phật giáochúng tôi đã tìm thấynhiều nguồn tư liệu quý hiếm cùng đề cập về một vị thánh giảgắn liền với phúc lộc, nói theo ngôn ngữ số đông chính là thần tài, đó là ngài Sīvali. Kinh điển Hán tạng phiên âm thành Thi-bà-la (尸婆羅).

Từ những bằng chứng quan trọng trong kinh điển, từ Hán tạng đến Nikāya, từ sự xác tín của chính đức Phật Thích-ca, đã cho thấy, đây là vị thánh có nhân duyên với phúc lộc nhiều đời. Chuyên khảo sau sẽ làm sáng tỏ các vấn đề liên quan.

1.    Cơ sở kinh, luận về ngài Thi-bà-la (尸婆羅: Sīvali).

1.1.        Tư liệu Hán tạng.

Trong thư tịch Hán tạng, ngài Thi-bà-la (尸婆羅, có khi viết 施婆羅, đôi khi phiên âm thành 世婆羅), xuất hiện trong những bản kinh, luận sau:

-        Kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển thứ ba và quyển 25[2].
-        Chú giải kinh Tăng-nhất-A-hàm. Thực ra, đây chính là bản luận Phân biệt công đức[3].
-        Kinh Xuất diệu[4].
-        Kinh Khởi thế[5].
-        Kinh Khởi thế nhân bổn[6].
-        Luận Đại-trí-độ[7].
-        Luận A-tỳ-đàm-Tỳ-bà-sa[8].

1.2.        Tư liệu Nikāya

Tư liệu Nikāya đề cập về ngài Sīvali khá phong phúbao gồm:

-        Kinh Tăng Chi Bộ[9].
-        Kinh Tiểu Bộ, kinh Phật tự thuyết (Ud.15)[10].
-        Kinh Tiểu Bộ, Jataka số 100[11].
-        Trưởng lão Tăng kệ[12].
-        Thánh nhân ký sự (Apadāna)[13]
-        Chú giải kinh Tăng Chi Bộ[14].
-        Chú giải kinh Pháp Cú[15]
-        Chú giải Trưởng lão Tăng kệ[16].

1.3.        Nhận định về tư liệu.

-        Cơ sở tư liệu vững chải liên quan đến ngài Thi-bà-la (Sīvali) được ghi nhận trong một bản kinhquan trọng, đó là kinh Tăng Chi Bộ ở Nikāya và kinh Tăng-nhất A-hàm tương đương ở Hán tạng. Trong cả hai bản kinhtôn giả Thi-bà-la (Sīvali) được chính đức Phật xác tín: bậc đệ nhất phước đức là tỳ-kheo Thi-bà-la (第一福德者, 尸婆羅比丘是也). Nguyên tác Pāli ghi: Tối thắng…về phúc lộc là ngài Sīvali(Etadaggaṃ… lābhīnaṃ yadidaṃ sīvali)[17].

-        Nếu như tư liệu về cuộc đời ngài Sīvali trong kinh tạng Pāli phần lớn nằm trong những bản chú giải, có niên đại xuất hiện khá muộn; thì tư liệu về tôn giả Thi-bà-la trong thư tịch Hán tạng xuất hiệntrong kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 25, có niên đại sớm hơn. Theo Khai nguyên thích giáo lục, quyển 3, kinh Tăng nhất-A-hàm do ngài Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva)dịch lại lần thứ hai[18] vào niên hiệu Long An nguyên niên (397) thời Tấn An Đế (382–419)[19].

-        Về phương diện chú giải, tư liệu Nikāya đề cập về ngài Sīvali rất phong phú, từ chú giải kinh Tăng Chi, Pháp CúTrưởng lão Tăng kệ…do hai bậc thầy về chú giải là ngài Budhaghosa và Dhammapālā trước tác. Xét về thời gian, cả hai tôn giả vừa nêu có niên đại vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VI. Trong khi đó, một phần chú giải bản kinh Tăng-nhất-A-hàm ở Hán tạng, liên quan đến tôn giả Thi-bà-la được ghi nhận vào thời Hậu-Hán (後漢:23-220), đó là bản luận Phân biệt công đức. Theo ngài Tăng Hựu (445-518) trong Xuất tam tạng ký tập, quyển bốn, thì đây là bản chú giải kinh Tăng-nhất-A-hàm do hai ngài Ca-diếp và A-nan tạo ra và không rõ ai đã dịch sang chữ Hán [20]. Nếu ghi nhận của ngài Tăng Hựu chính xác, thì đây là bản chú giải kinh Tăng-nhất-A-hàm sớm nhất trong lịch sử chú giải kinh điển[21].

Như vậy, từ sự đối khảo cả hai nguồn thư tịch từ Hán tạng đến Nikāya đã cho thấy rằng, tư liệu về ngài Thi-bà-la (Sīvali) trong Hán tạng là những tư liệu có niên đại xuất hiện khá sớm trong lịch sử truyền dịch kinh điển.

2.    Lược thuật về hành trạng của tôn giả Thi-bà-la (Sīvali)

2.1 Theo kinh tạng Nikāya.

Cha của tôn giả Sīvali tên là Mahāli người xứ Licchavī[22]. Mẹ của tôn giả tên là Suppavāsā, công chúanước Koliya[23] có truyền thống tín phụng Tam Bảo, thường cúng dường Đức Phật và chư Tăng[24].

Do nghiệp cũ oan khiên[25], nên nàng phải mang thai tôn giả Sīvali đến bảy năm và chịu cơn đau chuyển dạ đến bảy ngày. Tưởng mình sắp chết, nàng nói với chồng rằng: Trước khi mạng căn chấm dứt, tôi sẽ bố thí trọng thể (pure maraṇā jīvamānāva dānaṃ dassāmī)[26].

Sau khi phát tâm cúng dường Đức Phật và thánh tăng, nhờ lòng chí thành của nàng và sự chú nguyệncủa Tam Bảo, Suppavāsā đã hạ sanh một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Sīvali.

Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100) đã bổ sung:

Thiếu niên Sīvali, vào năm thứ bảy, hiến thân mình cho đạo, và xuất gia. Khi tuổi được đầy đủ, vị ấy thọ đại giới, làm các công đứcđạt được lợi đắc cao nhất trên cõi đất, tức là quả A-La-hán, và khiến quả đất vang lên tiếng động hoan nghênh[27].

Và kể từ khi chứng thánh quả A-la-hán, tôn giả Sīvali có một phước báo to lớn, thường được nhân loạihay chư Thiên ở khắp mọi nơi cúng dường, dù đó là chốn hoang vu hay nơi làng mạc, khi ở sông nước, hoặc trú tại đất liền (vane gāme jale thale)[28].

Một lần, trong chuyến du hóa đến trụ xứ của tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Đức Phật đã dẫn 500 vị tỳ-kheo dự kiến phải băng qua một vùng hoang vu dài khoảng 30 dặm và khó khăn về vật thực. Trước lúc khởi hànhĐức Phật đã hỏi tôn giả A-nan:

- Này, A-nan! Có Sīvali đi với chúng ta không?
- Dạ có, bạch Thế Tôn![29]

(Sīvali, pana, ānanda, amhehi saddhiṃ āgato ti? Āma, bhante ti)[30].

Với Đức Phật, chỉ cần có tôn giả Sīvali hiện diện trong đoàn thì dù con đường có hoang vu ít người qua lại, nhưng do phước báo của riêng tôn giả mà các vị thiện thần (devatā) sẽ tùy duyên hóa hiện thành người phàm, để cúng dường vật dụng cần thiết cho đấng Chí Tôn và toàn thể chúng tăng.

Sở dĩ có được phước báo to lớn đó là do nhiều thiện nhân duyên mà tôn giả đã gây dựng trong nhiều kiếp, nhiều đời. Theo Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100), Thánh nhân ký sự (Apadāna), chú giảikinh Tăng Chi Bộchú giải kinh Pháp Cúchú giải trưởng lão Tăng kệ; thì tiền thân của tôn giả Sīvali đã cúng dường lên Đức Phật Padumuttara[31] và được Ngài thọ ký sẽ là người đầy đủ phúc lộc ở đời vị lai[32]. Sau đó, trong một kiếp khác, tiền thân tôn giả đã hiến cúng hai phẩm vật, được xem như hai vị thuốc quý ở thời xưa[33], đó chính là bơ tươi vo thành viên (guḷadadhiñca) và mật ong (madhuñca) lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) với tâm tín thành và lòng kiên định sâu sắc[34]. Theo tư liệu, lễ phẩm tuy giản đơn nhưng do diễn ra trong một bối cảnh bức thiết nên trở thành đắt giá (sahassaṃ), mặc dù vậy tiền thân của tôn giả Sīvali chỉ kính nguyện dâng lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) và chúng tăng.

Như vậy, do dư nghiệp bất thiện ở quá khứ nên quá trình thác thai của tôn giả Sīvali gặp nhiều bất hạnh, khổ đau. Tuy nhiên, do phước nghiệp tự tay mình (sahattheneva) cúng dưởng hai phẩm vật gồm bơ tươi và mật lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) với lòng kiên địnhsùng kính, thế nên hiện đời phúc báocủa tôn giả luôn đầy tràn, không những lan tỏa đến chư vị Thánh tăng mà còn được Đức Phật Thích Catán thán: : Trong các vị đệ tử... nhận được đồ cúng dường, này các tỳ kheo, tối thắng là Sīvali[35].

2.2. Theo tư liệu Hán tạng.

Xét về nguồn cội, tôn giả Thi-bà-la (尸婆羅) vốn dòng dõi hoàng tộc Sư-tử- giáp (師子頰: Sīhahanu[36]), mẹ ngài tên là Cam-lộ-vị (甘露味: Amitā[37]; được phiên âm thành 阿彌多質多𡆗[38], có khi cũng gọi là 不死女[39]), cùng huyết thống với Đức Phật Thích-ca[40].

Theo kinh Tăng-nhất-A-hàm và bản chú giải kinh này ở Hán tạng, khi mới sinh ra, Thi-bà-la đã có những dấu hiệu đặc dị phi phàm. Kinh văn ghi nhận rằng, khi vừa sinh ra, hai tay tôn giả đã cầm viên minhchâu vô giá cùng nhiều biểu hiện kỳ đặc. Lo ngại nên cha mẹ của tôn giả đã cầu thỉnh các vị đạo sĩ giải đáp nhưng vẫn không thỏa lòngNghe tin Đức Phật Thích-ca là bậc quán thông, nên đã đưa tôn giả đến thỉnh an.

Phật dạy:

Đứa trẻ này cực kỳ đại phúc. Đến tuổi trưởng thành sẽ dẫn năm trăm đồ chúng cầu học với Ta. Sau khi xuất gia tu đạo sẽ chứng quả A-la-hán. Trong hàng thanh văn đệ tử của Ta là vị có phước đức lớn nhất, không ai sánh bằng.[41]

Như lời thọ ký của Đức Phật, vào lúc hai mươi tuổi, tôn giả Thi-bà-la đã cùng năm trăm người bạn xuất gia. Chỉ sau một thời gian ngắn tôn giả đắc quả A-la-hán.

Sau khi chứng đạt thánh qủa, tôn giả cùng năm trăm vị đồng học du hóa trong nhân gian, khi đi đến đâu tôn giả cũng được cúng dường tứ sự đầy đủ, dù ở thị thành náo nhiệt hay nơi hẻo lánh hoang vu. Vì lẽ, mỗi khi tôn giả đi đâu thì chư thiên đã mặc báo cho dân làng biết để tùy nghi cúng dường[42]. Đôi khi, tôn giả vừa khởi ý thì vua trời Thích-đề-hoàn-nhơn (釋提桓因, có lúc phiên âm là 摩伽婆[43]: Maghavā), và ngay cả Tỳ-sa-môn Thiên vương (毘沙門王: Vessavaṇa) cũng tùy tâm của tôn giả mà liệu biện các thứ. Thậm chí trong một trường hợp đặc biệtĐức Phật đã cho phép tôn giả tiếp nhận một trăm ngàn lượng vàng (百千兩金)[44] để tùy nghi phân bổ cúng dường vật dụng cho mười phương chúng Tăng.

Với phước báo to lớn như vậy là do nhiều nhân duyên mà tôn giả đã gây tạo ở nhiều kiếp xưa kia.

Trước hết, vào chín mươi mốt kiếp xưa, khi Đức Phật Tỳ-bà-thi (毘婆尸 = Vipassī) ra đời và giáo hóanhân dân tại nước Bàn-đầu (槃頭 = Bandhumatī), có một trưởng giả tên là Da-nhã-đạt (耶若達) muốn cúng dường Đức Phật Tỳ-bà-thi nhưng còn thiếu sữa đông (酪=Dadhi). Khi ấy, tiền thân tôn giả làm một người chăn bò và hiện có sữa đông, định dùng để tế tự các vị Trời. Khi ấy, dù được trưởng giả Da-nhã-đạt trả giá cao, nhưng khi được nghe mục đích cúng dường nên tiền thân tôn giả Thi-bà-la đã phát nguyện rằng:

Hôm nay tôi đích thân đem sữa đông đến cúng dường Như Lai.[45]

Thứ hai, vào ba mươi mốt kiếp về trước, có Đức Phật Thi-khí (Sikhī[46]. Nguyên tác: Thức-cật: 式詰) xuất  hiện ở đời. Khi ấy, tiền thân Thi-bà-la là một nhà buôn lớn với tên gọi Thiện Tài (善財) đã đảnh lễcúng dường nhiều kim ngọc trên thân Như Lai với lời nguyện rằng:

Nguyện nhờ công đức này, nơi nào con sinh ra, tiền tài luôn đầy đủ, bảo vật luôn sum vầy, không vật gì thiếu thốn, trong tay con lúc nào, cũng đong đầy tiền củacho đến trong thai mẹ, cũng nắm giữ tiền tài.[47]

Thứ ba, ở thời Trung kiếp (Antara-kappa), khi đức Như Lai Tỳ-xá-la-bà (毘舍羅婆, cũng gọi là Tỳ-xá-phù: Vessabhū ) xuất hiệntiền thân Thi-ba-la tên là cư sĩ Thiện Giác (善覺) lắm tiền nhiều của, đã tự tay mình (躬自辦: Sahattha) thiết trai hiến cúng Đức Phật và Thánh chúng với lời phát nguyện:

Con nguyện nhờ công đức, nơi nào con sinh ra, thường được gặp Tam Bảo, không vật gì thiếu thốn, có nhiều người phò trợ, ở trong đời tương lai, cũng gặp được Đức Phật, như đã gặp ngày nay[48].

Thứ tư, trong Hiền kiếp hiện tại (Bhadda-kappa), khi Đức Phật Câu-lâu-tôn (拘屢孫:Kakusandha) xuất hiện ở thế giantiền thân Thi-ba-la tên là Đa Tài (多財) đã phát tâm hiến cúng Đức Phật và thánh chúngsuốt bảy ngày với đầy đủ tứ sự cùng lời phát nguyện:

Nguyện nơi con thác sanh, tiền tài luôn đầy đủ, bảo vật luôn sum vầy, không sinh nhà bần tiện; khiến nơi con sinh ra, thường cúng dường tứ sự; khiến bốn chúngquốc vương, và nhân dân tôn kính; khiến trời rồng quỷ thầnnhân loại hay phi nhân, đều hân hoan đón tiếp.[49]

Do những nhân duyên công đức mà tôn giả Thi-bà-la đã gây tạo và phát nguyện trong nhiều kiếp quá khứ, thế nên kiếp này tôn giả Thi-bà-là xứng danh là bậc phúc lộc đệ nhất trong chúng đệ tử của đức Phật Thích-ca.

3.    Nhận định và đề nghị.

Tư liệu kinh điển từ Hán tạng đến Nikāya đều xác tín rằng, Thi-bà-la (Sīvali) là một vị thánh tăngsinh trưởng trong gia đình có truyền thống mộ Phật và thiện thí.

Từ lúc xuất gia và chứng đắc thánh quả, khi đi hoằng hóa hay bất cứ nơi đâu, dù chốn hoang vu hay nơi làng mạc, khi ở sông nước hoặc trú tại đất liền (vane gāme jale thale)[50], nơi nào tôn giả đặt chân đến thì nơi ấy chúng Tăng luôn được bình yên với sự cúng dường của chư Thiên và dân chúng. Sự thực này đã được Phật xác chứng: bậc đệ nhất phước đức là tỳ-kheo Thi-bà-la.

Khảo về nguyên nhân sâu xa thì tiền thân tôn giả đã từng đảnh lễcúng dường nhiều phẩm vật, từ sữa đông, mật ngọt đến thức ăn, trân bảo…với nhiều vị Phật quá khứ, từ cổ Phật Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-phù, Câu-lưu-tôn. Thậm chí, trước thời điểm tôn giả sinh ra, cha mẹ cũng nhân đó mà thiết trai hiến cúng cho Đức Phật  và mười phương tăng chúng.

Xem ra, từ sự thực khả tín qua nhiều nguồn tư liệu vừa nêu, từ ước nguyện sâu xa về một cuộc sống ấm no của số đông phật tử, từ thực trạng các vị thần tài có nguồn gốc Trung Hoa và kể cả Ấn giáo, đã mặc nhiên tồn tại trong không gian thờ tự, trong tâm khảm của hàng cư sĩ và kể cả một số ít các bậc xuất gia; cho thấy rằng, đã đến lúc phải tái xác nhận vai trò của thánh giả Thi-bà-la như một vị thần tàicủa Phật giáo.

Điều này, ở các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda đã thực hiện, nhưng chưa thực sự lan tỏa vào những quốc gia mang ảnh hưởng của Phật giáo Bắc truyền. Vì lẽ, mãi đến hôm nay cuộc đời và hành trạng của tôn giả Thi-bà-la (Sīvali) vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nếu không nói là do chưa tìm thấy cơ sở lý luận vững chải, nên chưa được các giới Phật giáo Việt Nam chú trọng, quan tâm.

Trong hiện tình Phật giáo hiện tại nói chung, việc tạo hình một vị thánh giả với bàn tay ban phúc phát lộc, là nguyên mẫu sống động gắn liền với hành trạng của tôn giả Thi-bà-la (Sīvali). Chúng tôi nhất trívới mẫu tượng thờ này và chỉ bổ sung thêm, trong những đặc phẩm cúng dường ngài, nên chăng cần sử dụng mật ong (madhu) và bơ đặc (dadhi). Vì đây là những lễ phẩm mà tôn giả dâng cúng đầu tiên, làm sơ khởi nhân duyên để tác thành nên một vị thần tài trong Phật giáo.



[1]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 第一福德者, 尸婆羅比丘是也

[2]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經

[3] 大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論

[4]大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第十五. Nguyên văn: 猶如尸婆羅比丘, 阿那律比丘, 功德滿足不求自至

[5] 大正藏第 01 冊 No. 0024 起世經, 卷第十

[6]大正藏第 01 冊 No. 0025 起世因本經, 名世婆羅

[7]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第三. Nguyên văn: 甘露味女有一子,名施婆羅

[8]大正藏第 28 冊 No. 1546 阿毘曇毘婆沙論, 卷第五十一

[9] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.59.

[10] Kinh Tiểu Bộ,  tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 124-127.

[11] Kinh Tiểu Bộ,  tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.386-388.

[12] Kinh Tiểu Bộ,  tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.230-231.

[13] Apadāna, Thánh nhân ký sự. Tỳ khưu Indacanda, dịch

[14] Chú giải kinh Tăng Chi Bộ, (Aṅguttaranikāya-aṭṭhakathā). Xem tại, tipitaka.org.

[15] Nguyên tác: Dhammapada-aṭṭhakathā. Xem tại, tipitaka.org. Tham khảoTích chuyện Pháp Cú, tập 2, Thiền viện Viên chiếu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 66-75

[16] Theragāthā-aṭṭhakathā. Xem tại, tipitaka.org.

[17] Aṅguttaranikāya, Ekakanipāta, Etadaggavagga. Xem tại, tipitaka.org

[18] Bản kinh Tăng-nhất-A-hàm đầu tiên, gồm 51 quyển, do ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) dịch vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 21 (385), thời Tiền Tần. Xem, 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第一, 序. Nguyên văn: 有外國沙門曇摩難提者,兜佉勒國人也,齠齓出家,孰與廣聞,誦二阿含,溫故日新,周行諸國,無土不涉.以秦建元二十年來詣長安,外國鄉人咸皆善之.武威太守趙文業求令出焉.佛念譯傳, 曇嵩筆受, 歲在甲申夏出,至來年春乃訖.

[19]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第三.  Nguyên văn: 增壹阿含經五十一卷(第二出隆安元年正月出與難提本小異竺道祖筆受或四十二或三十三無定亦有六十卷成者見道祖及寶唱錄)

[20]大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第四. Nguyên văn: 分別功德經五卷(一名增一阿含經疏迦葉阿難造).

[21] Theo ngài Trí Thăng (智昇),  trong tác phẩm Khai nguyên thích giáo lục, quyển thứ 13, đã cho rằng, căn cứ vào thông tin ở quyển thứ nhất của luận Phân biệt công đức, thì tác giải của bộ luận này không phải do hai ngài Ca-diếp và A-nan soạn (如論第一卷中引外國師及薩婆多說故知非是二尊所撰). Chúng tôiđã khảo sát lại, và thấy rằng, quan điểm của ngài Trí Thăng chưa đúng, vì ngữ cảnh câu văn không liên quan đến tác giả của bộ luận này. Và như vậy, quan điểm của ngài Tăng Hựu trong Xuất Tam Tạng Ký Tập quyển quyển 4, là quan điểm đáng được ghi nhận. Xem thêm tại, 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第十三

[22] Apadāna, câu 6105. Tỳ khưu Indacanda, dịch.

[23] Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 1163.

[24] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 63; tr. 405-406; Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 434.

[25] Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100) đã giải thích, trong kiếp quá khứtôn giả Sīvali là hoàng tử con vua Ba-la-nại, bị vua nước Kosala tấn công và cưỡng chiếm thành. Trong khi tái chiếm thành Ba-la-nại, nghe lời mẹ, hoàng tử đã bao vây, cắt đứt mọi nguồn viện trợ từ bên ngoài, thế nên đến ngày thứ bảy đã chiếm được thành. Do nghiệp cũ đó mà ngài phải chịu bảy năm trong thai và bảy ngày đau đớntrong khi chuyển dạ. Khổ đau cũng tương ứng với người mẹ, vì lúc xưa mẹ ngài đã góp lời khuyên thực hiện kế sách này. Xem, Kinh Tiểu Bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015 tr. 388.

[26] Chú giải kinh Tăng Chi Bộ, (Aṅguttaranikāya - aṭṭhakathā, Sīvalittheravatthu); Chú giải Trưởng lão Tăng kệ (Theragāthā-aṭṭhakathā, Sīvalittheragāthāvaṇṇanā). Xem tại, tipitaka.org.

[27] Kinh Tiểu Bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015 tr. 387

[28] Apadāna, câu 88, bản Pāli. Xem tại, tipitaka.org.

[29] Tích chuyện Pháp Cú, tập 2, Thiền viện Viên chiếu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 69.

[30] Nguyên tác: Dhammapada-aṭṭhakathā. Nội dung tương tự cũng được tìm thấy trong Chú giải kinh Tăng Chi Bộ, chuyện về ngài Revata. Xem tại, tipitaka.org.

[31] Là vị Phật thứ 10 trong 24 vị Phật quá khứ. Xem, Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 136.

[32] Apadāna, câu 6090. Tỳ khưu Indacanda, dịch.

[33]大正藏第 02 冊 No. 0150A 七處三觀經, 四五. Nguyên văn: 比丘有三大藥, 風者比丘大病, 麻油大藥, 亦麻油輩. 熱大病者, 酪酥大藥, 亦如酪酥輩. 寒大病者, 蜜大藥, 亦如蜜輩.

[34] Tích chuyện Pháp Cú, tập 2, Thiền viện Viên chiếu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 73-74.

[35] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.59

[36] Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 1171.

[37] Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p.1171

[38]大正藏第 03 冊 No. 0190 佛本行集經, 卷第十一

[39]大正藏第 01 冊 No. 0025 起世因本經, 卷第十

[40]大正藏第 03 冊 No. 0156 大方便佛報恩經, 卷第三; 大正藏第 03 冊 No. 0190 佛本行集經, 卷第五; 大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論,  卷第三. Nguyên văn: 昔有日種王名師子頰, 其王有四子: 第一名淨飯, 二名白飯, 三名斛飯,四名甘露飯. 有一女, 名甘露味.  淨飯王有二子佛, 難陀. 白飯王有二子:跋提, 提沙. 斛飯王有二子: 提婆達多, 阿難. 甘露飯王有二子: 摩訶男, 阿泥盧豆. 甘露味女有一子, 名施婆羅.

[41] 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 今此小兒極有大福, 此小兒若當大者, 當將五百徒眾來至我所, 而出家學道得阿羅漢, 我聲聞中福德第一, 無能及者

[42]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn:復有諸天告諸村落: 今有尊者尸婆羅,得阿羅漢福德第一, 將五百比丘, 在人間遊化. 諸賢可往供養, 今不為者. 後悔無益

[43]大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第四十, 一一〇六,

[44]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 爾時,世尊告尸婆羅曰:汝今可受此長者百千兩金, 使蒙其福, 此是宿緣之業,可受其報.

[45]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn:我今躬持此酪往施如來

[46] Là Đức Phật thứ 20 trong 24 vị cổ Phật. Theo, Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p.  p.1130.

[47]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 持此功德, 所生之處, 饒財多寶, 無所乏短, 無令手中有空缺時,乃至母胞胎中亦使不空

[48]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 我持功德,所生之處,常值三尊,無所短乏,恒多使人,令將來之世值如來, 如今日也.

[49]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三. Nguyên văn: 所生之處常饒財多寶,莫生貧賤之家,使我所生之處恒得四事供養,為四部之眾,國王,人民所見宗敬,天,龍,鬼神,人若非人,所見接遇

[50] Apadāna, câu 88, bản Pāli. Xem tại, tipitaka.org.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9300)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6369)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5928)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7440)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7262)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5150)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8024)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5877)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9442)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7333)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7271)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6142)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5251)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5791)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5609)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3925)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5632)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4036)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7437)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5673)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21799)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5564)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 6990)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 4983)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6416)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5757)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4968)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7010)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6002)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5493)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5832)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5956)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6707)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6396)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6049)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6428)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6094)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6312)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5559)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6870)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4532)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7726)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 5972)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7229)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7655)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5450)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5109)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5606)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5468)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5466)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 4954)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4233)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 5999)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5601)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6239)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 5207)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5749)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7373)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6308)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant