Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 6

26 Tháng Hai 201808:08(Xem: 6172)
Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 6

TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH

Khám phá tâm thức thần bí nhất

 

 

Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA

Hoang Phong chuyển ngữ

 
TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH 2z

                                                                         

                       

Mục lục

 

            Rigpa và Lhaksam: Hai món quà của Đức Đạt-lai Lạt-ma hiến tặng cho thế giới:

            Lời tựa của Sofia Stril-Rever................... .............................. ..........................

            Lời tựa của Jeffrey Hopkins  .............................. .............................. ..............

                                                                                     

                                                                                     

Phần thứ nhất

Con đường Phật giáo

 

            1. Vài nhận định.......................... .............................. .............................. ........

            2. Lòng từ bi nhân ái............................ .............................. .............................

            3. Thiền định.......................... .............................. .............................. .............

            4. Trí tuệ........................... .............................. .............................. ...................

 

(Phần thứ hai

Dẫn nhập về phép Đại hoàn thiện

 

            5. Căn bản chung của tất cả các học phái Phật giáo Tây Tạng).........................         

            6. Tâm thức tự tại của ánh sáng trong suốt.......................... ..............................

           

Phần thứ ba

Bình giải về

Ba chữ đánh thẳng vào điểm chủ yếu

của Patrul Rinpoché)

 

            7. Giáo huấn thứ nhất.......................... .............................. .............................. .

            8. Con đường tối thượng của sự nghỉ ngơi.......................... ............................

            9. Tinh thần vajra hay "lòng nhân ái toàn cầu"

            10. Giáo huấn thứ hai........................... .............................. .............................. .

            11. Con đường thăng tiến tuần tự............................ .............................. ............

            12. Giáo huấn thứ ba: Sự giải thoát tự nhiên......................... ............................

            13. Tính cách đồng nhất của cả ba giáo huấn.......................... ..........................

           

Phần thứ tư

Đối chiếu giữa hai học phái:

dịch thuật xưa và dịch thuật mới

 

            14. Cấu trúc căn bản của học phái dịch thuật xưa trong phép Đại hoàn thiện...

            15. Lời khuyên của tôi........................... .............................. ..............................

 

            Phụ lục........................... .............................. .............................. .......................

            Thư tịch chọn lọc........................... .............................. .............................. ......

 


 

PHẦN THỨ HAI

 

Dẫn nhập về phép Đại hoàn thiện

 

***

 

 

 

Chương  6

 

Tâm thức tự tại của ánh sáng trong suốt

 

 

            Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa. Trong số này Đại hoàn thiện là "thừa" cao siêu nhất, các "thừa" khác chỉ được xem như các hệ thống tu tập dành cho những người ở các cấp bậc thấp. Tâm thức [nói chung] được phân chia thành hai thể loại: tâm thức [thông thường] và tâm thức thần bí nhất, việc tu tập trong các hệ thống thấp chỉ xoay quanh tâm thức [thông thường], trái lại chỉ trong Đại hoàn thiện, tức là "thừa" thứ chín [trong số các thừa trên đây], thì tâm thức thần bí nhất mới được xem là con đường tâm linh [đích thật].

 

 

Không cần đến sự cố gắng nào cả

 

 

            Bên trong mỗi con người chúng ta đều hàm chứa tâm thức thần bí nhất ở thể dạng nguyên sinh của nó, thể dạng đó tự duy trì bởi chính nó (có nghĩa là không cần đến một sự nuôi dưỡng, chăm sóc hay phát huy nào cả). Tâm thức thần bí nhất nằm sâu trong nội tâm, vì thế phải làm cho nó phát lộhiện ra với tất cả sự trần trụi của nó hầu dựa vào đó như là một con đường tu tập tâm linh trọn vẹn. Vì phép luyện tập đó được xem là một con đường hay một hệ thống tu tập [đầy đủ] nên được gọi là "Cỗ xe"/thừa không cần phải cố gắng" (câu này hơi vắn tắt vì gồm chung hai ý khác nhau: trước hết phép Đại hoàn thiện là một con đường trọn vẹn và đầy đủ giúp người tu tập đạt được giác ngộ nên có thể gọi đó là một "cỗ xe" - còn gọi là "thừa", tiếng Phạn và Pa-li là "yana" có nghĩa là một chiếc xe hay một cỗ xe [đưa người tu tập đến giác ngộ]; ý nghĩa thứ hai là phép luyện tập này không cần đến các giai đoạn trung gian và các phương tiện thiện xảo rườm rà, do đó được gọi là "không cần phải cố gắng", ý nghĩa này sẽ được Đức Đạt-lai Lạt-ma giải thích dưới đây).

 

            Thuật ngữ trên đây (tức Cỗ xe không cần phải cố gắng) tự nó phản ảnh từ bên trong nó một sức mạnh đặc biệt, biểu trưng cho một sự hiểu biết chuyên biệt giúp thực hiện một chủ đích rõ rệt. Khi nêu lên đây là một "Cỗ xe/thừa không cần phải cố gắng", thì cũng không có nghĩa là không cần đến bất cứ một sự cố gắng nào. Cứ nằm ì ra đó, ăn uống hả hê thì nhất định không phải là tu tập! Trái lại, các chữ trên đây (không cần phải cố gắng) hàm chứa một ý nghĩa thật sâu sắc và chủ yếu, nêu lên một phép thiền định nhất thiết chỉ căn cứ vào tâm thức thần bí nhất và xem đấy là con đường [tu tập] duy nhất. Đối với các hệ thống tu tập khác, ở vào các giai đoạn đầu tiên, việc luyện tập còn phải dựa vào khái niệm (đúng sai, tốt xấu, luân hồi, niết-bàn, v.v., kể cả các chư Phật và chư Bồ-tát và cả các thứ màu mè tôn giáo), sau đó bước sang các giai đoạn cuối cùng, thì mới hướng vào chủ đích làm hiển lộ tâm thức phi-khái-niệm của ánh sáng trong suốt. Trái lại, đối với phép Đại hoàn thiện thì ngay từ giai đoạn đầu tiên, việc luyện tập đã không dựa vào khái niệm mà trực tiếp hướng thẳng vào tâm thức thần bí nhất, [sở dĩ điều đó có thể thực hiện được] là nhờ vào các lời giáo huấn vô cùng tinh tế, sâu sắc và chuyên biệt. Vì tính cách trực tiếp đó nên phương pháp luyện tập này được gọi là phương pháp không cần đến cố gắng (các phương pháp thấp phải cần đến những giai đoạn chuẩn bị dựa vào các phương tiện thiện xảo, chẳng hạn như các việc tụng niệm, cầu xin..., hoặc các việc nghiên cứu, học hỏi mang tính cách quy ước và khái niệm v.v.,  do đó cần phải "cố gắng" và "kiên nhẫn", Trái lại phép Đại hoàn thiện hướng thẳng vào tâm thức thần bí nhất để đạt được sự giác ngộ, không cần phải trải qua các giai đoạn chuẩn bị trên đây. Điều này phải chăng cũng có thể giúp hiểu được phần nào là chỉ cần một đêm thiền định dưới cội Bồ-đề Đức Phật đã đạt được Giác Ngộ?)

 

 

Vai trò  chủ yếu của tâm thức ánh sáng trong suốt

 

 

            Tất cả các học phái Phật giáo Tây Tạng đều đặt nặng vai trò chủ yếu của tâm thức ánh sáng trong suốt ở cấp bậc tối thượng của nó. Các học phái này nhất loạt đều chủ trương cho rằng mọi hiện tượng dù là thuộc vào sự hiện hữu chu kỳ (cõi luân hồi) hay nirvana/niết-bàn cũng vậy, tất cả chỉ là các sự chuyển động (jeu/play/sự vận hành) hay phát tán (irradiation/phát xạ) của ánh sáng trong suốt tự tại [của tâm thức]. Do đó cội rễ hay căn bản của tất cả những gì hiện hữu trong cõi samsara/ta-bà và cả nirvana/niết-bàn đều nhất thiết là ánh sáng trong suốt nguyên sinh. Vì thế nếu muốn tu tập tâm linh hầu tinh khiết hóa các sự ô nhiễm, kể cả bên trong tâm thức thần bí nhất hay ánh sáng trong suốt, thì cũng duy nhất là chỉ cần biến tâm thức căn bản tự tại của ánh sáng trong suốt trở thành nền tảng (căn bản, cơ sở hay con đường) tu tập của mình. Sau hết, "quả" mang lại từ con đường, và cũng có nghĩa là tâm thức căn bản tự tại của ánh sáng trong suốt, sẽ hiển lộ và tách ra khỏi mọi chướng ngại cùng những gì hư hoại, để trở thành một sự hiểu biết toàn năng, làm hiện ra thể dạng của một vị Phật, mang lại những điều tốt lành cho kẻ khác. 

 

 

 

Các loại sách Phật giáo

 

 

            Điều hết sức quan trọng phải ý thức được là Phật giáo không hề tách ra làm hai thứ khác nhau: lý thuyếtthực hành. Đối với các sách giải thích về giáo lý thì các bạn, với trình độ hiện nay của mình, có thể cho rằng không thiết thực, chẳng liên hệ gì đến việc tu tập hằng ngày của mình. Các bạn có thể nghĩ rằng các loại sách ấy chỉ là để nêu lên các khía cạnh triết học, và chỉ đưa đến mọi sự tranh cãi mà thôi. Trong khi đó thì các sách khác ngắn gọn và thiết thực hơn, đưa ra những điều cần phải mang ra thực hành. Điều này là một sự sai lầm lớn. Các bạn phải hiểu rằng toàn thể Kinh điển Phật giáo (Tam Tạng Kinh và cả các kinh sách Đại Thừa) và các tập bình giải (các tập luận triết học) đều thật cần thiết hầu mang lại cho các bạn sự hiểu biết, bởi vì tất cả đều nêu lên những lời hướng dẫn giúp các bạn tu tập, không những ngay trong hiện tại mà cả về sau này.  

 

            Không có gì khôi hài hơn là học một đàng, tu một nẻo. Đối với các giáo huấn (các căn bản lý thuyết, các đường hướng tu tập)phức tạp đến đâu đi nữa thì ít nhất cũng có thể xem chúng như một bản đồ giúp mình định hướng, phác họa cuộc hành trình và các chặng đường mà mình sẽ phải vượt qua. Dù có một số các giáo huấn chỉ chú trọng đến các cấp bậc thực hành, nhưng lại cũng có một số khác quan niệm là trước hết phải nắm vững chủ đích trên mặt lý thuyết do các giáo huấn ấy đưa ra.

 

            Qua các bài hát (các bài thơ, thường là trường thiên) mang tính cách thần cảm của các vị Mahasiddha/Ma-ha Tất-đạt (là các vị du-già đã đắc đạo nhờ phép luyện tập Tan-tra, về cả lý thuyết lẫn thực hành, tạo ra cho mình một sức mạnh tâm linh thật phi thường gọi là "siddhi", phản ảnh sự Giác Ngộ của mình. Họ sống phiêu bạt trong các vùng Hy-mã Lạp-sơn vào khoảng giữa các thế kỷ thứ VIII và XII, có khuynh hướng chống lại các hình thức tu tập rập khuôn và gò bó trong chốn tự viện - gcts) của nước Ấn ngày xưa, người ta thường thấy nêu lên các lời chỉ dẫn liên quan đến những kinh nghiệm cảm nhận mang lại bởi các phép luyện tập thiền định. Những lời chỉ dẫn này thường mở ra nhiều đường hướng tu tập tâm linh thật cao thâm (chẳng hạn như Shantideva/Tịch Thiên, 685-763, tác giả tập thơ Bodhicharyavatara/Hành trình đến Giác Ngộ). Các bài hát đó được trước tác dựa vào các kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp và đột khởi, ngợi ca các thành quả [siêu việt] mang lại từ phép luyện tập du-già (thiền định nói chung). Ngoài ra cũng có nhiều vị thầy đã đạt được các cấp bậc tâm linh thật sâu xa và đã truyền lại cho các đệ tử thân tín của mình (qua các hình thức "thụ giáo" mang tính cách trực tiếp, do đó các sự "hiểu biết" nhờ thụ giáo thường không được lưu lại dưới hình thức sách vở). Nhiều vị du-già uyên bác trong tất cả các học phái Phật giáo Tây Tạng cũng thường trước tác các bài hát nêu cao các thành quả mà mình từng thực hiện được (chẳng hạn như nhà du-già Milarépa/Mật-lặc Nhật-ba, 1040-1123, tác giả tập thơ trường thiên "Thập Vạn Ca").

 

            Đến đây tôi sẽ nêu lên một vài nét đại cương về bản văn "Ba chữ đánh thẳng vào tâm điểm". Bản văn này là một cảm ứng đột khởi, mô tả lại các cảm nhận thiền định hiện lên trong tâm thức của một vị đại sư đã đắc đạo là Dza Patrul Jigme Chokyi Wangpo  (1808-1887, sinh ra trong một gia đình du mục tại tỉnh Kham Tây Tạng và được xem là hóa thân của Shantideva/Tịch Thiên. Tuy là một nhà sư lừng danh nhưng ông chọn một kiếp sống lang thang. Ông trước tác rất nhiều dưới bút hiệu "Chó già".  "Con đường Đại hoàn thiện" là một trong số các trước tác nổi tiếng của ông, được xem như tiêu biểu cho toàn bộ học phái Nyingma. Trước tác này đã được dịch sang tiếng Pháp: "Le chemin de la Grand perfection", Éditions Padmakara, 1997 - gcts). Ông là một vị du-già uyên bácnổi tiếng, một nhân vật khác thường, nhưng vô cùng khiêm tốn. Ông thường tập họp các đại đệ tử của mình tại các nơi mà ông dừng chân, để thuyết giảng thêm cho họ. Thế nhưng một hôm bất thần ông trốn khỏi nơi ông đang tạm trú để tìm một nơi khác yên tịnh hơn. Trên đường ông xin được một chân giúp việc trong một quán trọ, bà chủ quán không biết ông là ai cả. Ông rất chăm chỉ, từ việc quét dọn, hốt rác cho đến đổ bô trong các phòng trọ mỗi sáng sớm.

 

            Trong khi đó thì đám đệ tử của ông thay nhau đổ đi tìm vị thầy khả kính của mình khắp nơi trong vùng, gặp ai họ cũng hỏi có trông thấy vị Lạt-ma của mình hay không. Một hôm họ gặp đúng bà chủ quán và hỏi bà này có biết tin tức gì về một vị thầy tên là Dza Patrul Rinpoché hay không. Bà này lắc đầu nhưng vẫn cứ hỏi thêm là vị này vóc dáng ra sao. Sau khi nghe qua bà này cho biết: "Gần đây có một người lớn tuổi ăn mặc rách rưới đến đây và tôi đã thuê để giúp việc trong nhà". Các đệ tử biết ngay đây chính là thầy mình, và bà chủ quán sau khi vỡ lẽ ra là người giúp việc khiêm tốn đang ở bên trong quán trọ của mình chính là vị đại sư đã đắc đạo, nổi tiếngvô cùng uyên bác ấy, thì cảm thấy vô cùng bối rốixấu hổ bèn vắt chân lên cổ mà bỏ chạy (không dám nhìn lại vị thầy mà mình đã sai đổ bô).

 

 

Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ

 

 

            Điều quan trọng nhất đối với một tín ngưỡng nói chung là nền tảng giáo lý của tín ngưỡng ấy. Nền tảng đó phát sinh từ đâu, được quảng bálưu truyền bằng cách nào, tín đồ thực hành ra sao, mang lại những kết quả nào và giúp ích được gì cho nhân loại? Các vấn đề trên đây thật rộng lớn và bao quát, không thuộc khuôn khổ của những lời ghi chú dưới đây. Thiết nghĩ rằng dầu sao chúng ta cũng chỉ cần nhìn vào lịch sử tiến hoá của nhân loạitình trạng trên thế giới ngày nay thì cũng có thể mang lại một vài ý niệm nào đó về các thắc mắc trên đây. Trong phần đầu của chương 6 này, Đức Đạt-lai Lạt-ma chỉ nêu lên một phương pháp tu tập thật độc đáo, được xem là "rất dễ" và "nhẹ nhàng" của Phật giáo Tây Tạng, đó là cách hướng thẳng vào sự giác ngộgiải thoát đã có sẵn bên trong tâm thức của chính mình. Phép tu tập đó sở dĩ được xem là "không cần phải cố gắng" là vì nó gạt qua một bên tất cả các thứ màu mè của tôn giáo và cả các giai đoạn tu tập còn phải dựa vào các phương tiện thiện xảo cùng các sự "hiểu biết" mang tính cách quy ước và khái niệm.

 

            Phần cuối của chương 6 nêu lên các phương tiện chuyển tải và quảng bá giáo lý của Đức Phật. Đức Đạt-lai Lạt-ma cho biếtgiáo lý đó không phải chỉ là lý thuyết mà còn là những lời hướng dẫn cụ thể trong lãnh vực thực hành. Về mặt lý thuyết và trên dòng lịch sử tiến hóa của xã hộivăn minh nhân loại, giáo lý đó của Đức Phật ngày càng được "đào sâu" thêm, trở nên "đa dạng" và "phức tạp" hơn, đưa đến sự xuất hiện của các học giả, luận sư thật uyên bác, chẳng hạn như Nagarjuna (thế kỷ thứ II và III) với học thuyết Madhyamaka/Trung quán. Tương tự như thế, về mặt thực hành cũng đã đưa đến sự xuất hiện của thật nhiều nhà sư đắc đạo thật cao thâm, phát huy được một sự quán thấy siêu việt và tạo được cho mình một sức mạnh tâm linh phi thường.

 

            Trên dòng lịch sử phát triển đó của Phật giáo, sự quảng bálưu truyền giáo lý của Đức Phật bắt đầu bằng truyền khẩu, nhưng sau đó đã được căn cứ vào kinh sách, các tập bình giải và đặc biệtphương pháp thụ giáo của Phật giáo Tây Tạng, đó là cách trao truyền sự hiểu biết và các kinh nghiệm tu tập từ các vị thầy đắc đạo sang các đệ tử của mình tùy theo khả năng, trình độxu hướng của từng người. Các vị thầy ấy, qua các hình thức truyền đạt trên đây, biểu trưng cho một sự kết hợp tuyệt vời giữa trí tuệ và sự tu tập, và cũng có nghĩa là giữa lý thuyếtthực hành. Sự kết hợp đó mà các vị thầy đã thực hiện được cho mình cũng được gọi là "quả mang lại từ con đường". Sự kết hợp đó cũng chính là một nét đặc thù và độc đáo của Phật giáo: "lý thuyết" đưa đến "thực hành", "thực hành" đưa đến một "sức mạnh tâm linh phi thường", "sức mạnh tâm linh phi thường" đưa đến một sự "hiểu biết siêu nhiên". Đấy là con đường của Đức Phật.

 

            Các "quả" đó là các kinh nghiệm cảm nhận nằm thật sâu bên trong nội tâm, do đó cũng hết sức khó diễn đạt bằng lời hay bằng các sự lý luận quy ước. Thật vậy những điều đó chỉ có thể nắm bắt bằng sự cảm nhận mà thôi, chính vì thế mà các nhà sư cao thâm chỉ biết "hát" lên những kinh nghiệm mà mình đã đạt được để truyền sang cho kẻ khác qua các sự rung cảm của họ. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã chọn một bài "hát" thần cảm thật siêu phàm của nhà sư Dza Patrul Jigme Chokyi Wangpo nêu lên tâm thức thần bí nhất hiện hữu nơi mỗi con người chúng ta để thuyết giảngchỉ dẫn cho chúng ta các phương cách thực hành, hầu giúp mình đạt được các cảm nhận ấy bởi chính mình, bên trong nội tâm của mình. Chương 6 trên đây chỉ là phần dẫn nhập về phép luyện tập đó, Đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ giải thích chi tiếtcặn kẽ hơn trong các chương sau.

 

              Ngoài ra Ngài cũng nêu lên một giai thoại về nhà sư Dza Patrul trên đây. Dù là một nhà sư đã đắc đạonổi tiếng thế nhưng ông đã chọn cuộc sống của một kẻ lang thang, và dù đưa ra những lời giáo huấn thật siêu việt thế nhưng ông cũng chỉ nhận mình là một con "chó già". Phải chăng khi kể lại giai thoại này, Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng có ý nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại chính mình. Thật vậy tình trạng sách vở, bài viết, bài giảng về Phật giáo hiện nay cho thấy cả một sự lạm phát, một hình thức phô trương cái tôi, khiến người tu tập thêm hoang mang mà thôi.

 

            Trên dòng lịch sử phát triển của Phật giáo đã từng có rất nhiều nhà sư đắc đạo và khiêm tốn như nhà sư Dza Patrul trên đây. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VIII đến cuối thế kỷ XII, khi Phật giáo bắt đầu suy tàn và biến mất trên đất Ấn, đã từng xuất hiện nhiều nhà sư khác thường, một số xuất thân từ đại học danh tiếng Nalanda/Na-lan-đà, nhưng cũng có nhiều vị khác tự tu tập một mình. Thế nhưng tất cả đều cho thấy một nét giống nhau đó là kiếp sống phiêu bạt, hoặc hòa mình với thế tục hoặc sống biệt tích trong những chốn hoang vu. Họ dẹp sang một bên mọi cờ xí, chuông mõ, khuôn phép và cả nề nếp trong chốn chùa chiền, vì dường như các thứ ấy cũng chỉ là những gì quấy rầy họ mà thôi, bởi vì sự giác ngộgiải thoát không ở trong các thứ ấy mà nằm thật sâu bên trong con người của họ. Shantideva/Tịch thiên từng tu tập tại đại học Nalanda nhưng sau đó đã bỏ đi biệt tích, chỉ để lại hai tập sách, một trong hai tập này là Bodhicharyavatara/Hành trình đến giác ngộ. Người ta gọi các nhà sư phiêu bạt và khác thường đó là các vị Mahasiddha/Ma-ha Tất-đạt hay Yogi/Du-già, và trên phương diện xã hội thì dường như họ cũng biểu trưng cho cả một phong trào thời bấy giờ, chống lại sự tu tập và cuộc sống gò bó, chật hẹp trong chốn chủa chiền.

 

 

(hết chương 6)

 

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 09.02.18

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1617)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1739)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1789)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1285)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2580)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1278)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1363)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2502)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1495)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1426)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1597)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1848)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1517)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1353)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1448)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1241)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1542)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1403)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant