Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Địa Ngục Qua Cái Nhìn Duyên Khởi

04 Tháng Tư 201804:00(Xem: 5390)
Địa Ngục Qua Cái Nhìn Duyên Khởi

Địa Ngục Qua Cái Nhìn Duyên Khởi 

Chân Hiền Tâm

Địa Ngục Qua Cái Nhìn Duyên Khởi


Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục.

Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ngôi chùa thuộc địa phương Đại sư đang ở.

Khi nghe diễn tả thật chi tiết về những nỗi khổ trong tám tầng địa ngục, ông rúng động. Cả người run bắn. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông không sao ngủ được và khóc cả đêm.

Bà mẹ vẫn có thói quen bắt người hầu gái phải đun nước thật sôi để tắm cho con trai. Cô phải châm củiliên tục cho đến khi lò lửa cháy bùng...

Ông đã sợ hãi và thét lớn khi thấy những vệt lửa bắn ra từ chậu tắm. “Con không thể nào đi vào bồn tắm mà không sợ hãi khi nghĩ đến lúc con phải vào trong hỏa ngục, bị đốt cháy trong đó. Con phải làm sao bây giờ? Có cách nào tránh được điều đó không? Hay cứ phải ngồi chờ cho tới khi cái chết đến? Con muốn biết con phải làm gì? Mẹ phải cứu con”.[1] Để yên lòng con trai, bà đã dạy ông kính lễ vị thần của đền Kitano và tụng bộ kinh Tenjin. Ông thực hành rất nghiêm túc. Đó là bước đầu vào đạo của Đại sư Bạch Ẩn.

Một lần, có sự cố nhỏ xảy ra trong gia đình, ông đã cầu cứu đến vị thần của đền Kitano, nhưng không giải quyết được việc gì. Ông nhận ra con đường mẹ dạy không thể cứu ông thoát khỏi địa ngục. Ông chuyển qua tụng kinh Phổ Môn và hành thiền, là con đường mà theo Đại sư, mới có thể giúp ông thoát khỏi địa ngục đang chờ đón mình phía trước.

Địa ngục có hay không?

ĐỊA NGỤC CHẲNG PHẢI CÓ CHẲNG PHẢI KHÔNG

Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngụcĐề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết. Trong kinh Địa TạngBồ-tát Bản NguyệnQuỉ vương Vô Độc cũng trả lời thánh nữ dòng Bà-la-môn là “Thật có địa ngục”.

Tùy theo tướng trạng hành hình mà địa ngục có vô số danh xưng khác nhau và nằm trong núi Thiết Vi. Lớn thì có 18 chỗ.Kế thì có 500 chỗ. Kế nữa có đến nghìn trăm chỗ với nhiều danh hiệu khác nhau: “Có địa ngục tên là Dương Đồng, có địa ngục tên là Bảo Trụ, có địa ngục tên là Lưu Hỏa… Có vô sốcác tên gọi như thế”. “Thưa nhân giả, hoặc có địa ngục kéo lưỡi người tội ra mà cho trâu cày trên đó, hoặc có địa ngục moi tim người tội ra cho quỉ Dạ Xoa ăn. Hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sùng sục… ”.[2]

Dù kinh luận đã xác nhận có địa ngục, với chỗ nơi, tên gọi, tướng trạng và số nhiều vô kể như thế nhưng điều đó không có nghĩa là thật có một địa ngục với bản chất thường hằng, là có tội nhân hay không có tội nhânđịa ngục vẫn tồn tại. Không phải.

Địa ngục là pháp duyên khởi. Nó chịu sự chi phối của lý Nhân duyên. Nên nó phụ thuộc vào chúng sinh gây tạo ác nghiệp. Có chúng sinh gây tạo cái nhân địa ngục mới có địa ngục xuất hiện. Không cóchúng sinh gây tạo ác nghiệp thì địa ngục hoàn toàn không.

Bồ-tát Long Thọ nói: “Pháp do nhân duyên sinh / Ta nói tức là không”.[3] Không, là không có tự tánh. Lìa tự tánh tức vô sinh.[4] Thành tuy thấy địa ngục có hình có tướng như thế mà tánh vốn thường không.

Cho nên, tuy kinh luận xác định địa ngục là có, nhưng là cái có trong vòng nhân duyênnhân quả. Không có thực tánh. Địa ngục chỉ có với những ai đã gây tạo cái nhân địa ngục. Không có với những ai không gây tạo cái nhân địa ngục. Hoặc đã gây tạo mà biết chuyển tâm sám hối tu hành thì địa ngục liền không.

Không tạo cái nhân địa ngục mà vẫn thấy địa ngục hoặc vào được địa ngục là do sức oai thần củanguyện lực. Kinh nói: “Nếu không phải sức oai thần thì cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều ấy ra, ắt không bao giờ đến được đó”.[5]

Hỏi: Nói vô sinh là nghĩa lý gì?

Đáp: Vô sinh, là nghĩa tất cả pháp đều từ tâm sinh, không có thứ gì có cội gốc của riêng nó. Ngày nay các nhà vật lý hiện đại đang đi tìm hạt cơ bản, là đi tìm cái gốc tối cùng từ đó phát sinh vạn vật v.v…Bảo đảm, không thể nào tìm ra cái gọi là hạt cơ bản đó. Vì tất cả đều là duyên sinh, đều là sở hiện củatự tâm, chỉ do bất giác mà có. “Tâm sinh thì tất cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt”.[6] Như ngủ rồi mộng, tuy thấy mọi thứ có hình, có tướng, có khổ, có lạc, có tới, có lui mà chỉ là mộng tưởng, do sức ngủ vô minh mà có, không có chất thật. Ngay khi mộng thấy như có mà tánh vẫn thường không.Tỉnh mộng liền dứt.

Nói theo tinh thần của Trung Luận thì địa ngục chẳng phải có chẳng phải không. Chẳng phải có, vì tự thể vốn không. Chẳng phải không, vì nhân duyên hội ngộ in tuồng như có. Thể của vọng vốn rỗng, thành có mà chẳng phải có. Không mà chẳng phải không, vì mê tình chưa dứt, không thể nói không.[7]

NHÂN DUYÊN KHIẾN CHÚNG SINH CHIÊU CẢM CẢNH GIỚI ĐỊA NGỤC

Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, có nêu ra những hành nghiệp khiến chúng sinh chiêu cảmquả báo địa ngục:

1/ Không hiếu thảo với cha mẹ.
2/ Giết hại cha mẹ.
3/ Có tâm ác làm thân Phật chảy máu.
4/ Khinh chê ngôi Tam bảo.
5/ Không kính trọng kinh điển.
6/ Xâm tổn của thường trụ.
7/ Ô phạm đến Tăng Ni.
8/ Tư tình làm sự dâm loạn trong chốn già lam thanh tịnh.
9/ Giả làm Tăng Nilạm dụng của thường trụ, trái phạm giới luật, gạt gẫm hàng bạch y, tạo nhiều tội ác.
10/ Không cho mà lấy đồ ăn, thức uốngvật dụng, y áo, thuốc men v.v… của thường trụ.

Trong 10 điều trên, ngoài tội bất hiếu và giết hại cha mẹ, còn lại đều có liên quan đến Tam bảo và ngôiGià lam.

Trong bài thơ nói về địa ngục của thi hào Dante, phần địa ngục cấp một của ông, dành cho những người không chịu rửa tội và những kẻ vô thần mà có đức hạnh.[8] Có lẽ do hai chữ “đức hạnh” mà địa ngục cấp một của ông chưa có sự hành hình. Do thiếu đức tin nên coi như ở địa ngục chuẩn bị.

Đây thì không như vậy. Bởi không qui y Tam bảo, mà sinh hoạt đời thường của mình phù hợp với 5 giới của phật tử tại gia thì cuộc sống của mình vẫn khả quan. Vì theo luật Nhân quả mà vận hành. Vẫn hưởng được sự tốt đẹp do những thiện nhân mình đã gây tạo. Chỉ khi khởi tâm khinh chê Tam bảo mới đọa vào địa ngục.

Vì sao khởi tâm khinh chê thì bị đọa? Vì Phật pháp dạy con người hoàn thiện bản thân để có đời sốnghiện tại an vui và quả báo tốt đẹp ở đời sống kế tiếp. Cũng dạy chúng sinh giải thoát mọi khổ đau, nhận ra chân lý… Khi chúng ta thiếu đức tin hay phỉ báng lại những điều đó chính là đang chống lại thiện nghiệp của mình. Đó là cái nhân khiến ta qui hướng ác đạo.

Trong địa ngục, có phần dành cho cả những vị trong ngôi Tam bảo nhưng không phải là Tăng bảo mà là Tăng giả danh. Nói “giả”, khiến mình liên tưởng đến những “phạm trù” mà trong đó chất lượng không đi đôi với tên gọi hay quảng cáo trên bao bì.

Để phân biệt giữa Tăng bảo và người đời, ngoài hình tướng được trang bị để phân biệt (y áo hạn chếtrong vài màu và đầu không có tóc) thì giới luậtđịnh lực cũng như trí tuệ của chư vị chính là thứ khiến chư vị được gọi là Tăng bảo.

Giả, nghĩa là áo quần trang bị bên ngoài thì có mà giới định tuệ bên trong thì không. Kinh Pháp Diệt Tận nói: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này, tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có nhữngquyến thuộc ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gianưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanhtham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau ... Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm Tăng Ni, họ thiếu đạo đứcdâm dậttham nhiễmnam nữ sống lẫn lộnPhật pháp suy vi chính là do bọn này. Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe.Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải.Tuy thếbề ngoài cũng ra vẻ đạo đứcthường hay nói phô, để hy vọng sự cúng dường.Các Tì kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh trải qua nhiều kiếp.Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo”. Kinh Địa Tạng thì không nói đến định tuệ mà chỉ nói đến giới luật, vì nó là nền tảng thấp nhất mà một Tăng bảo cần có để việc tự lợi và lợi tha được thành công. Không có phần căn bản này làm nền tảng thì không có gì để phân biệt với người đời. Không khác người đời thì không thể gọi làTăng bảo, cũng không thể đòi hỏi sự kính trọng của người đời.

Khởi tâm khỉnh bỉ, dù là đối với việc đáng khinh, cũng là cái nhân đưa đến cái quả không tốt cho chúng sinh. Là Tăng bảo, đáng nhẽ phải là người điều tiết được thiện đạo cho chúng sinhtrở lại khiến chúng sinh sa vào đường dữ thì đọa địa ngục là tất nhiên. Chưa kể một khi đã giả danh thì không thể tránh được các tội khác như lạm dụng của thường trụ, ô phạm Tăng Ni v.v… Tội lỗi rất nhiều.Tránh sao được cái quả ác đạo.

Làm cho thân Phật ra máu thì Phật hiện nay đã không còn. Nhưng kinh Đại Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm khinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng với làm cho thân Phật ra máu...”.

Trong các bài kinh thuộc hệ A-hàm, nếu phạm vào ngũ giới của người tại gia là không sát sinhtrộm cắptà dâmnói dối, uống rượu, thì tùy mức độ và tính chất sai phạm mà đọa vào ba đường dữ.[9]

THỆ NGUYỆN SÂU DÀY CỦA BỒ-TÁT ĐỊA TẠNG

Nhắc đến địa ngục không thể không nhắc đến Bồ-tát Địa Tạng. Bởi những thệ nguyện độ sinh của ngài đều dành cho chúng sinh ở chốn tội khổ.

Trong thân tướng Trưởng giả : Bồ-tát Địa Tạng, trong tiền kiếp khi còn là một vị trường giả, đã gặp được đức Phật Sử Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Thấy thân tướng đức Phật rực rỡ trang nghiêm, ngài đã hỏi về nhân duyên để có được thân tướng đó. Khi nghe đức Phật trả lời: “Cần phải trải qua một thời gian lâu xa độ thoát các chúng sinh khốn khổ”, ông đã lập thệ nguyện: “Từ nay cho đếntột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiềuphương tiện, làm cho chúng sinh đó được giải thoát hết cả rồi, tự thân mới chứng thành Phật đạo”.

Trong thân tướng vua chúa: Đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, khi chưa xuất gia, ngài là vua một nước nhỏ, kết bạn với vua nước lân cận, đồng thực hành Thập thiện nghiệp, làm lợi ích chochúng sinh.

Do dân trong nước đa phần đều tạo ác nghiệp, nên một vua phát nguyện sớm thành Phật, là Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn vị vua lân cận thì phát nguyện: “Nếu tôi trước chẳng độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui, chứng quả bồ-đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật”. Đó là tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng.

Trong thân tướng thánh nữ: Thời đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, có người con gái dòng Bà-la-môn, nhiều đời chứa phước sâu dày, thường có chư thiên theo hộ vệ, nhưng người mẹ lạimê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam bảo. Dù khuyên nhủ mẹ bao nhiêu, bà vẫn theo nếp cũ mà đi. Chẳng bao lâu sau bà chết, thần thức chiêu cảm cái quả địa ngục Vô gián.

Thánh nữ biết cái nhân mẹ gây tạo không thoát khỏi địa ngục nên chiêm bái tôn tượng đức Giác Hoa, mong biết mẹ thác sinh vào chốn nào. Do lòng hiếu thuận và hạnh đức tu tạo phước lành, cúng dườngchùa tháp và cung kính đức Giác Hoa Như Lai mà mẹ cùng các tội nhân khác được thoát khỏi địa ngục, sinh lên Thiên giới. Do nhân duyên đó mà nàng đã phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đờivị lai, những chúng sinh nào mắc tội khổ, tôi liền lập ra nhiều phương chước làm cho chúng sinh đó được giải thoát”.

Trong thân tướng nữ nhi: Thời Phật Liên Hoa Mục Như Lai, có người con gái tên Quang Mục, do duyên lành gặp được một vị La Hán chỉ bày cho phương cách cứu mẹ đang ở địa ngục. Do nhân duyên đó nàng đã phát nguyện: “Nếu thân mẫu tôi thoát khỏi địa ngục khi mãn mười ba tuổi, không còn bị trọng tội và rơi vào ác đạo nữa thì tôi xin phát nguyện rộng lớn như vầy: Từ nay về sau, đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sinh bị tội khổ nơi địa ngục cùng baác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi ba ác đạo”.

Nhận sự ủy thác của Như Lai: Sau khi được Phật nói cho biết về quá khứ độ sinh nhọc nhằn và lâu dài của đức Phật. Bồ-tát Địa Tạng được phó chúc trách nhiệm độ sinh. Ngài đã rơi lệ mà thưa: “Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ đức Thế Tôn tiếp dẫn mà có trí tuệ rộng lớn và được thần lực không thể nghĩ bàn. Con đã phân thân hiện ra cùng khắp trăm nghìn muôn ức hằng hà sa thế giới, trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi thân hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến họ qui kínhTam bảo, khỏi hẳn vòng sinh tử , hưởng vui niết bàn. Những chúng sinh nào, đối với Phật pháp chỉ làmviệc lành bằng một sợi lông, giọt nước… con nguyện độ thoát dần khiến chúng đó được lợi ích lớn”.

Mọi lời nguyện đều vì chúng sinh tội khổ mà hiện thân cứu giúp.

 

CHUYỂN NGHIỆP - NHÂN TRONG DUYÊN NGOÀI CẦN ĐỦ

Chư Phật và Bồ-tát luôn thương tưởng đến chúng sinh, luôn muốn cứu giúp chúng sinh thoát khỏinhững khổ não ở thế gian, nhưng chư Phật và Bồ-tát không thể lôi chúng sinh từ bờ khổ qua bờ lạc. Bởi ba thứ thân, khẩu, ý nghiệp của chúng sinh là thứ quyết định hạnh phúc hay đau khổ cho chính họ. Cho nên, dù muốn cứu giúp, chư vị cũng chỉ là người tạo duyên. Còn nhân, phải là của chính chúng sinh đó.

Vì sao phải cần đến nhân trong duyên ngoài như thế?Vì chúng sinh sống trong thế giới mà Nhân duyênNhân quả là thực lý vận hành chi phối tất cả. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Nếu nhân duyên đầy đủ, nghĩa là tự có cái lực huân tập, lại được cái duyên là nguyện từ bi của chư Phật và Bồ-tát hộ trì thì hay khởi cái tâm chán khổ, tin có niết bàn…”.Phải khởi cái tâm chán khổ thì mới có thể tu tập mà chuyển được khổ.

Chịu tin, chịu tu, dù chỉ là tu phước, thì đó cũng là cái nhân giúp chúng sinh chuyển hóa dần hạnh nghiệp của mình.Cũng nương vào nhân đó của chúng sinh, Bồ-tát mới có thể tạo duyên giúp đỡ. Nên nói: “Đối với Phật pháp, chỉ làm việc lành bằng một sợi lông, giọt nước… Con đều độ thoát dần”. LuậnĐại Thừa Khởi Tín cũng nói: “Tất cả chư Phật và Bồ-tát đều nguyện độ thoát hết thảy chúng sinhtự nhiên huân tập thường hằng chẳng bỏ.…”.

Trợ duyên độ thoát bằng cách nào? Tùy theo thấy nghe cảm ứng mà hiện làm các nghiệp. Hoặc thấy, hoặc nghĩ, hoặc làm quyến thuộccha mẹ, người thân, người giúp việc, bạn hữu, oan gia…[10].

Theo đó thì thấy không phải chỉ gieo duyên với chính Tăng bảo, chùa tháp v.v… chúng sinh mới được độ, mà với vài thiện nghiệp bình thường đối với một người cơ nhỡ thấp hènvẫn có thể là cái duyên đối với Phật pháp. Bởi Phật pháp không chỉ có mặt hiển mà còn mặt ẩn, không chỉ có quyền mà còn có thật v.v... Vì thế đừng bao giờ ngừng tạo thiện nghiệp dù chỉ là việc rất nhỏ.Bởi có khi đó là cái nhân cứu mình thoát khỏi địa ngục trong hiện tại và tương lai.

Có người cho Phật pháp không thiết thực ở mặt cứu người như một số tôn giáo khác, những vị cao tăng ẩn mật tu hành là thiếu tích cực v.v... Đó là vì không thấy được mặt “ẩn mật” của Phật phápKinh Địa Tạng Bản nguyện nói: “Ta phân ra nhiều thân độ thoát những hạn chúng sinh mỗi mỗi sai khác như thế. Hoặc hiện ra thân trai, hoặc hiện ra thân gái… hoặc hiện ra Thiên đế, hoặc hiện ra Tì kheo, Tì kheo ni …”[11]. Cũng nói: “Bấy giờ những hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng ở các thế giới hiệp chung lại…”.Muốn phân thân thành vô lượng vô biên thân để độ sinh ở vô lượng vô biên cõi nước, đòi hỏi người tu phải chứng nhập lại được pháp thân của mình.Đó là thứ sẳn đủ trong mỗi chúng sinh, chỉ vì mê mà không dụng được. Muốn chứng nhập được phần pháp thân đó, thiện nghiệp không thể chỉ dừng ở mặt phúc thiện (là thứ mà người đời vẫn cho là rất tích cực đối với cái khổ của tha nhân), mà đòi hỏihành giả phải biết hướng nội thanh lọc thân tâmtrưởng dưỡng định lực, phát huy trí tuệ như nhà thiềnhay nói: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự. Bất tùng tha đắc”.[12] Cho nên thứ mình thấy tích cực chưa hẳn đã tích cực, thứ mình thấy tiêu cực chưa hẳn là tiêu cực.

ĐỊA TẠNG VÀ DẠ XOA

Tai ươnghoạn nạn, chết chóc, bất hạnh ngày càng nặng và nhiều ở thế giới này.Nhiều cảnh nhìn vào thấy không khác những gì được diễn tả trong địa ngục.Địa ngục có hay không, thế gian này cũng đã đủ đầy. Đó là do càng ngày, con người càng sa nặng vào ác nghiệpchạy theo những ham muốn củabản thân, đánh mất niềm tin đối với nhân quả.

Một cô bé bị tạc acid nói với tôi: “Con nhận ra địa ngục đâu phải chốn nào xa. Tại cái bệnh viện này đã đủ rồi. Ngày nào cũng thấy có người chết, tiếng máy cưa rì rì, tiếng lột da, sự đau đớn, rên la… Trong màu áo trắng thánh thiện của bệnh viện, những con người, có khi chính là Bồ-tát Địa Tạngxoa dịu nỗi đau cho chúng sinh về cả thân xác lẫn tinh thần.Nhưng cũng chính họ có khi là quỉ Dạ Xoa khiến chothân tâm bệnh nhân càng thêm bức não, đau đớn.Địa ngục đã có mặt ở thế giới này, đâu chỗ nào xa”.

Không phải chỉ cô bé mới có cái nhìn như thế. Một số người khác, trong đó có tôi, cũng thấy địa ngụckhông cần phải về tới núi Thiết Vi mới có. Ngay đây, tại thân tâm này, nếu không thể thoát những bức não khổ đau trong chính mình thì không khác ở chốn địa ngục.

Nói với một người đang bị nạn rằng: “Ông phải chịu như thế vì ông đã gây cái nhân như thế” trong khi họ đang quằn quại đau đớn là việc không nên làm, cũng không thể làm với người có chút từ tâm. Nhưng đó là sự thật mà chúng ta phải nhìn thấy để còn biết mà tránh hầm tránh hố cho đoạn đườnghiện tại cũng như tương lai của mình.Không có gì thoát khỏi sự vận hành của Duyên khởi, được triển khai thành Nhân duyên và Nhân quả.

Đã có quả, tất phải có nhân.Nếu có quả mà không nhân thì rơi vào thuyết Vô nhân của ngoại đạo.Nhân đó chính là những gì mình đã tạo ra trong quá khứ.Nói quá khứ là so với cái quả mà mình đã nhận được trong kiếp này.Nó có thể là từ vô lượng vô số kiếp về trước.Cũng có thể là vừa ngay kiếp vừa rồi.Cũng có thể là ngay trong kiếp này, trước khi quả xảy ra.Thành nếu có trách thì nên trách mình trước, trách người sau.Muốn thoát khỏi địa ngục trần gian, cũng phải chuyển tâm trước, cảnh mới chuyển sau.Tâm nếu không chuyển, ba nghiệp nếu không sửa thì đi tới đâu cũng như cú vọ hay quạ đen đổi nơi ở, chẳng thể đổi thay được bao lâu hoàn cảnh xấu ác của mình.

Qua cái nhìn Duyên khởiĐịa Tạng và Dạ Xoa là những pháp không tánh, chỉ tùy duyên mà hiện khởi. Nguyện của chư Phật vẫn đó, nhưng hạnh nghiệp của chúng sinh nếu quá trược ác cũng không thể nhận được. Thế giới này vốn là thế giới Hoa Nghiêm của mười phương chư Phật, chỉ vì hạnh nghiệp của chúng sinh mà thành Sa-bà với nhiều nẽo luân hồi khổ đau. Bát cơm của thánh Mục Kiền Liênbỗng hóa lửa đó chỉ vì bà Thanh Đề khởi tâm ngạ quỉ tham lam. Cho nên, cần gieo các thiện nghiệp đểlời nguyện của Bồ-tát được hiện thành và bóng của Dạ xoa mất đi.

Những gì xảy ra trong thế giới này đều có sự tương quan mật thiết với nhau.Kẻ giết người và người bị giết đều có quan hệ nhân duyên từ trước. Lòng vòng như vòng bánh xe xoay mãi không dừng. Nếu không có niềm tin với nhân quả, không có trí tuệ để phân định thiện ác trong đời sống, cũng như khôngđủ định tỉnh để dừng đi những nghiệp tập của chính mình, mình sẽ bị lôi vào cái vòng trả vay vay trả với người không biết bao giờ mới thôi.

Tôi không phải là y bác sĩ nhưng tôi có một kinh nghiệm khá quí báu. Nuôi một đứa trẻ. Thân ruột của mình. Một đứa trẻ thiếu chiều cao, số cân và rất biếng ăn. Thật khó mà làm chủ được mình khi nó cứ vùng vằng và hất tung mọi thứ, còn mình thì sức đã đuối, trong khi ăn cho hết bát cháo là việc mình phải làm cho nó.

Một lực gì đó rất mạnh luôn thôi thúc tôi phát vào mông nó mấy cái.Thân ruột mà còn thế.Huống là không thân ruột. Trên báo đài thường trình làng về những cảnh trẻ con bị đánh không thương tiếc mà những kẻ ngoài cuộc như mình luôn ta thán: “Tán tận lương tâm”. Giờ chính mình là người trong cuộc, mới hiểu thấu vì sao như vậy.Cái lực khởi đó rất mạnh, nếu không phải là người thường xuyên quán tâm (tu Quán) thì khó mà thấy.Thấy rồi, nếu không từng tập dừng tâm (tu Chỉ), cũng khó mà dừng được. Cứ theo nghiệp khởi mà đi…

Tôi đã sám hối hết lòng và hồi hướng những công đức đã tạo trong đời để xóa đi cái lực khởi rất mạnh đó.Cũng là để xóa đi một phần nhân duyên không tốt trong đời sống của mình.

Mới thấy, nếu không có mục đíchsức khỏenhẫn lựctrí tuệđịnh lực và nhất là tình thương đối vớitha nhân, mình rất dễ chạy theo những cái khởi bất thiện mà tạo nghiệp. Khởi thì chỉ một mà nhân duyên để khởi thì vô sốĐịa Tạng hay Dạ xoa từ đó mà hiện thành.

Không tánh, nên ngay nơi tướng Dạ xoa, nếu mình có ít nhiều nhẫn lực và sự hiểu biết thì bản thânmình cũng có thể chuyển Dạ xoa thành pháp mầu của mười phương chư Phật. Trong Hoa NghiêmThám Huyền Ký, tổ Hiền Thủ nói: “Với Nhất thừatam thế gian đều nhập pháp luân. Tất cả ngữ ngônâm thanh của chúng sinh đều nhập pháp luân”.Đề Bà Đạt Đa, trong các bộ kinh thuộc hệ A-hàm, là ác tri thức. Trong kinh Pháp Hoatrở thành thiện tri thức giúp Phật mau thành đạo.Không có pháp nào không phải là Phật pháp ở thế gian này. Chỉ là vì căn lực của mình không đủ để nhận ra điều đó.

Nhân duyên giữa mình và người thuận có nghịch có.Thuận thì mọi thứ vui vẻ, êm xuôi.Nghịch thì trắc trở, ngưng trệ. Với những nghịch duyên, chỉ cần chúng ta tin vào nhân quả, là đã có thể chuyển đi loạitư kiến hướng ngoại phê phán. Thay vì trách cứ và đau khổchúng ta sẽ nhận ra mặt pháp vị của nó, giúp định lực và trí tuệ của mình ngày càng tăng trưởngchuyển hóa được nghiệp tội của mình và người.

 

 

[1] Bạch Ẩn Huệ Hạc – cuộc đờingữ lục, thư pháp, họa phẩm – Thuần Bạch và Ngọc Bảo biên dịch.
[2] Phẩm Danh Hiệu Địa Ngục.
[3] Luận Trung Quán – phẩm Phá Tứ Đế - Bồ-tát Long Thọ tạo .
[4] Lăng Già Tâm Ấn – HT Thanh Từ dịch.
[5] Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện - Phẩm Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi.
[6] Luận Đại Thừa Khởi Tín
[7] Nói chung cho tất cả pháp. Không chỉ riêng với địa ngục.
[8] Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
[9] Trung Bộ Kinh tập 3.Bài kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt.Việt dịch HT Thích Minh Châu.
[10] Luận Đại Thừa Khởi Tín – Bồ-tát Mã Minh. Dịch và giải Chân Hiền Tâm.
[11] Lời của đức Phật dạy Bồ-tát Địa Tạng trong kinh Bồ-tát Địa Tạng Bổn Nguyện. Bản dịch của HTTrí Tịnh.
[12] Lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4035)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4927)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6513)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3892)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3995)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5224)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3828)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3737)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3826)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3766)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4690)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4151)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3732)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4070)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5962)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4490)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4852)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4070)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4731)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3535)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3941)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4504)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5173)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4636)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4182)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4386)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7094)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5093)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4890)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4490)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5516)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4062)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5882)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4593)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4781)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5367)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5475)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5684)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4259)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4572)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4605)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5766)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3238)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5163)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2865)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant