Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 12

13 Tháng Tư 201806:26(Xem: 5113)
Tâm Điểm Của Thiền Định Khám Phá Tâm Thức Thần Bí Nhất - Chương 12

TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH

Khám phá tâm thức thần bí nhất

 

Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA

Hoang Phong chuyển ngữ

 TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH 2

TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH 1 

Chương 12

 

Mục lục

 

 

            Rigpa và Lhaksam: Hai món quà của Đức Đạt-lai Lạt-ma hiến tặng cho thế giới:

            Lời tựa của Sofia Stril-Rever...........................................................................

            Lời tựa của Jeffrey Hopkins  ..........................................................................

                                                                                   

 

                                                                                   

Phần thứ nhất

Con đường Phật giáo

 

            1. Vài nhận định..............................................................................................

            2. Lòng từ bi nhân ái.......................................................................................

            3. Thiền định...................................................................................................

            4. Trí tuệ..........................................................................................................

 

 

Phần thứ hai

Dẫn nhập về phép Đại hoàn thiện

 

            5. Căn bản chung của tất cả các học phái Phật giáo Tây Tạng).........................        

            6. Tâm thức tự tại của ánh sáng trong suốt........................................................

           

 

 

Phần thứ ba

Bình giải về

Ba chữ đánh thẳng vào điểm chủ yếu

của Patrul Rinpoché

 

            7. Giáo huấn thứ nhất........................................................................................

            8. Con đường tối thượng của sự nghỉ ngơi.......................................................

            9. Tinh thần vajra hay "lòng nhân ái toàn cầu".................................................

            10. Giáo huấn thứ hai........................................................................................

            11. Con đường thăng tiến tuần tự......................................................................

            12. Giáo huấn thứ ba: Sự giải thoát tự nhiên.....................................................

            13. Tính cách đồng nhất của cả ba giáo huấn....................................................

           

Phần thứ tư

Đối chiếu giữa hai học phái:

dịch thuật xưa và dịch thuật mới

 

            14. Cấu trúc căn bản của học phái dịch thuật xưa trong phép Đại hoàn thiện...

            15. Lời khuyên của tôi.......................................................................................

 

            Phụ lục..............................................................................................................

            Thư tịch chọn lọc.............................................................................................

 

 


 

PHẦN THỨ BA

 

Bình giải về Ba chữ đánh thẳng vào điểm chủ yếu (1)

của Patrul Rinpoché

 

***

Chương  12

 

Giáo huấn thứ ba

Sự giải thoát tự nhiên

 

 

                        Đến đây chúng ta sẽ đề cập đến giáo huấn thứ ba và cũng là giáo huấn sau cùng:

 

            Giáo huấn thứ ba như sau:

 

Vào đúng lúc đó (xin xem lại câu thơ sau cùng của giáo huấn thứ hai trong chương 10, trước khi chuyển sang giáo huấn thứ ba này), trong khuôn khổ của sự hiểu biết [phát sinh từ] thực thể căn bản,

Giữa mọi sự thèm kháthận thù,

Cũng như mọi sự thích thú và đớn đau, kể cả mọi thứ khái niệm phụ thuộc (adventive/ liên hệ với những thứ ấy),

Không có bất cứ một sự kết nối (connection) nào được tạo tác và tồn lưu cả.

Hãy nhận biết Dharmakaya/Thân Đạo Pháp, mà bên trong nó tất cả đã được buông bỏ (buông xả, tháo gỡ),

Tất cả đều biến mất tương tự như những dòng chữ viết trên mặt nước.

Trên dòng chuyển biến không hề gián đoạn của sự tự-hiển-hiện (auto-appearance) và tự-giải-thoát (self-liberation/tự-buông-xả) đó,

Bất cứ một thứ gì hiện lên cũng chỉ là thức ăn nuôi dưỡng tri thức trần trụi và trống không.  

Bất cứ một thứ gì chuyển động (fluctuate/biến động, đổi thay) cũng chỉ là một trò đùa siêu đẳng (jeu royal/royal play/ngạo nghễ, độc đoán) của Dharmakaya/Thân Đạo Pháp mà thôi.

Tất cả đều được tinh khiết hóa một cách tự nhiên, không lưu lại một dấu vết nào! A la la! (các chữ này được mượn thẳng - tức không dịch - từ trong các nguyên bản tiếng Pháp và tiếng Anh, đó là cách thốt lên một sự kinh ngạc đầy thích thú, nói lên một sự khám phá tuyệt vời nào đó. Trong các câu thơ thuộc phần giáo huấn thứ nhất bà Sofia Stril-Rever không dịch mà giữ nguyên tiếng Tây Tạng là Emahó - đã được giải thích trong chương 7).

Tất cả đã từng hiển lộ như trước đây (chẳng có gì mới lạ cả),

Thế nhưng phương cách giải thoát thì lại hoàn toàn khác hẳn (đối với một người đã "ý thức" được bản chất của mọi hiện tượng thì cũng sẽ hiểu rằng tất cả những gì "tự-hiển-hiện" và "tự-biến-mất" trong tâm thức mình thì cũng chỉ là như thế, mình đã từng biết chúng trước đây, không có gì mới lạ cả, thế nhưng chính sự quen thuộc đó lại là một sự khám phá tuyệt vời và mới lạ, một phương tiện tu tập vô song giúp mình hiểu được chúng đã từng hiện lên và cũng từng biến mất trong cái tâm thức đó của chính mình).

Nếu thiền định mà không thực hiện được điều đó thì chỉ đưa đến mọi sự lầm lẫn mà thôi.

Bất cứ ai hiểu được điều đó [đương nhiên] sẽ thường trú trong Dharmakaya/Thân Đạo Pháp mà không cần phải thiền định thêm về bất cứ gì nữa cả.

Sự vững tin sẽ hiện lên đúng vào lúc [mà mình] đã loại bỏ được mọi thứ tư duy (các khái niệm) - và đây cũng là giáo huấn chủ yếu thứ ba.  

 

 

BẦU KHÔNG GIAN

CỦA THÁI ĐỘ KHÔNG THAM GIA

 

 

            Dù bất cứ một khái niệm phụ thuộc (adventive/liên hệ) hay tạm thời nào phát sinh, chẳng hạn như những sự thèm khát, hận thù, thích thú hay đớn đau, thì hãy cứ nhận diện chúng đơn giản là những sự rung động (vibrations) của tâm thức thần bí nhất. Khả năng của các thứ tri thức khái niệm đó (conceptual consciousnesses - xin nhắc lại đó là các cảm nhận phát sinh từ sáu thể loại tri thức: năm tri thức cảm giáctri thức tâm thần) sẽ yếu dần, tuần tự từng tri thức một, sau hết chúng sẽ không còn tạo được các mối dây trói buộc như trước đây nữa, mà [trái lại] sẽ củng cố cho nhau (hầu mang lại một sự xả bỏ toàn diện hơn).

 

            Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều [trước mọi cảnh huống xảy ra], kể cả trường hợp các bạn tự tạo ra cho mình một sự thèm khát hay thù ghét thật gay gắt, hoặc rơi vào các cảm tính tự mãn thật mạnh đối với một sự thành công nào đó, hoặc phải chịu đựng những nỗi đớn đau gay gắt, hoặc gặp phải những sự thất bại ê chề. Bởi vì nếu muốn trực tiếp đối đầu với các thứ xúc cảm đó từ bên trong chúng, thì thật hết sức chủ yếu là phải nhận biết được tâm thức thần bí nhất, bởi vì đấy chính là nền tảng của sự giải thoát (liberation/buông xả, tháo gỡ). Khi nào các bạn đủ sức thường trú bên trong sự cảm nhận đó về bản thể căn bản - có nghĩa là nền tảng và phương cách mang lại sự giải thoát đích thật  -  mà mình đã từng nhận biết được nó từ trước (tức tâm thức thần bí nhất), và không đánh mất nó cũng không rời khỏi nó, thì các khái niệm tạo tác hiện ra trong khung cảnh của bản thể căn bản đó cũng sẽ chẳng khác gì những dòng chữ viết trên mặt nước. Chúng sẽ biến mất tức khắc, tan vào bầu không gian của tâm thức thần bí nhất, không tạo ra một sự kết nối nào sau đó cả. Vừa mới được tạo tác thì tức khắc chúng sẽ bị hòa tan ngay. Vậy các khái niệm sẽ tan biến vào đâu? Vào bên trong tâm thức thần bí nhất! Trước hết nhờ phép Đại hoàn thiện các bạn hãy nhận diện tâm thức căn bản, tức là Dharmakaya/Thân Đạo Pháp, bởi vì đấy là nơi mà các khái niệm sẽ bị loại bỏ. Sau đó khi các khái niệm hiện lên, thì chúng cũng sẽ thay nhau tan biến hết, chẳng khác gì những dòng chữ viết trên mặt nước.

 

            Nhờ vào giáo huấn thứ nhất các bạn nhận biết được tâm thức thần bí nhất của mình. Với giáo huấn thứ hai, các bạn học được cách duy trì sự hiện hữu của nó trong những lúc hành thiền. Đến đây (giáo huấn thứ ba) các bạn phải làm tan biến các tư duy khái niệm [hiện ra từ] bên trong tâm thức thần bí nhất:

 

Vậy thì, bên trong sự hiểu biết [phát sinh từ] thực thể nền tảng,

Giữa mọi sự thèm kháthận thù,

Cũng như mọi sự thích thú và đớn đau, kể cả mọi thứ khái niệm phụ thuộc (adventive/thứ yếu  và liên hệ với những thứ ấy),

Không có một sự kết nối nào được tạo tác và tồn lưu cả.

Hãy nhận biết Dharmakaya/Thân Đạo Pháp, mà bên trong nó tất cả đã được buông bỏ (buông xả, tháo gỡ),

Tất cả đều biến mất tương tự như những dòng chữ viết trên mặt nước.

 

            Khi các khái niệm hiện lên và dù chúng có đa dạng cách mấy đi nữa thì các bạn cũng cứ tập trung vào thực thể trống không về bản thể tinh túy của chúng, để hiểu rằng chúng không thể vượt xa hơn bản thể của tri thức nền tảng [tự tại]. Nếu thành công thì các bạn cũng sẽ hiểu rằng các cơ cấu của sự sinh hoạt khái niệm (nói một cách nôm na là các tư duy, xúc cảm và tác ý của mình) tự nó cũng sẽ dự phần vào sự thiết lậpduy trì thực thể của chúng [tức là sự trống không].     

 

            Khi nào các bạn thực hiện được phép luyện tập đó đúng đắnlâu dài (thường xuyên), thì dù bất cứ khái niệm nào hiện lên với mình thì nó cũng chỉ là một phương tiện sinh tồn (subsistence) hay một thứ thực phẩm nuôi dưỡng tri thức trần trụi của sự trống không/Tánh không. Các khái niệm hiện lên và tức khắc tan biến một cách tự nhiên, điều đó là một yếu tố thuận lợi giúp chúng ta phát động sự luyện tập và mở rộng sự hiểu biết về thể dạng tri thức tiên khởi, trần trụi và trống không. Điều này được nói lên trong câu thơ sau đây của nhà sư Patrul Rinpoché: "Trên dòng chuyển biến của sự hiển-hiện-tự-nhiên (auto‑appearance) và sự tự-giải-thoát-tự-nhiên (self-liberation), không bao giờ gián đoạn đó,  bất cứ một thứ gì hiện lên cũng chỉ là thức ăn nuôi dưỡng tri thức trần trụi và trống không" (các hiện tượng tâm thần hiện lên và tan biến bên trong tâm thức giữ vai trò khơi động và thúc đẩy sự vận hành của tri thức, dòng tri thức nguyên sinh tự nó và chính nó luôn ở thể dạng vắng lặng và trống không. Tư duy, xúc cảm, tác ý liên tục hiện lên và biến mất là một yếu tố, một sự kiện, giúp mình trực tiếp ý thức được là chúng che dấu phía sau chúng một sự vắng lặng và trống không thật sâu kín của dòng tri thức mình).

 

            Tóm lại nếu các bạn không bị lôi cuốn bởi bởi sự sinh hoạt khái niệm tác động từ bên ngoài (ngoại cảnh không làm cho mình bị phân tâm), đồng thời vẫn đủ sức (giữ được sự tập trung) nhận biết được thể dạng tự nhiên của tâm thức thần bí nhất và duy trì nó một cách bền vững, thì sự sinh hoạt khái niệm trong tâm thức mình, dù căng thẳng đến mức độ nào, cũng chỉ đơn giản như những sự rung động (vibrations), một hình thức tỏa sáng (effulgence), hay một trò đùa siêu đẳng (jeu royal/royal play) của Dharmakaya/Thân Đạo Pháp với vai trò đơn giản là cơ sở chuyển tải của tâm thức nền tảng.

 

            Trong bối cảnh đó, tư duy khái niệm sẽ không còn tạo ra một sự nối kết nào và do đó cũng sẽ không lưu lại phía sau nó một dấu vết nào cả. Tương tự như một con chim bay ngang vòm trời, không lưu lại vết tích của đường bay, các khái niệm thì cũng vậy, dù là dưới hình nào (vui buồn, sung sướng, khổ đau, hận thù, thương yêu, đúng sai, thích thú, ghét bỏ, văn chương, thi phú, triết học, khoa học, tôn giáo, đức tin...) thì chúng cũng sẽ tự xóa đi, tự tinh khiết hóa một cách tự nhiên, không tạo ra một sự nối kết nào sau đó cả: "Bất cứ một thứ gì chuyển động cũng chỉ là trò đùa siêu đẳng của Dharmakaya/Thân Đạo Pháp, tất cả sẽ được tinh khiết hóa một cách tự nhiên, không lưu lại một dấu vết nào! A la la!" (có thể liên tưởng đến sự "đình chỉ"/nirodha do Đức Phật thuyết giảng).      

 

 

SỰ KHÁC BIỆT CHỦ YẾU

 

 

            Khi nào các bạn thực hiện được sự cảm nhận thật sâu xa đó thì các khái niệm dù có thực sự hiện lên với mình như trước đây, thế nhưng đối với phương cách loại bỏ chúng thì một sự khác biệt vô cùng lớn lao sẽ xảy ra. Thật vậy tư duy vẫn tiếp tục sinh sôi chẳng khác gì như trước khi nhận biết được tâm thức thần bí nhất, thế nhưng các biện pháp tháo gỡ sự kềm kẹp của chúng thì hoàn toàn khác hẳn. Một khi đã ý thức được hiện thực đó thì trước hết các bạn phải nhận biết được các tư duy khái niệm đó tương tự như gặp lại một người bạn mà mình đã từng quen biết từ trước. Khi đã ý thức được tình trạng đó tức là lúc mà các khái niệm (xin nhắc lại khái niệm ở đây có nghĩa là tư duy, xúc cảm và tác ý, nói chung là các phóng tưởng tâm thần) hiện lên với mình, thì trước hết các bạn hãy nhận biết chúng, tương tự như gặp lại những người mà mình đã quen biết từ trước. Điều đó có nghĩa là khi một khái niệm vừa mới hiện lên thì mình nhận biết ngay được nó và tự nhủ như thế này: " Ô! Đây quả đúng là một khái niệm rồi!", đó là cách giúp mình không rơi vào vòng ảnh hưởng do nó tạo ra (một cách giúp mình tự tách rời ra khỏi các khái niệm hiện lên trong tâm thức mình, chúng không phải là mình, cũng không phải là của mình). Dầu sao vào lúc mà các bạn nghĩ rằng: "Đây đúng là một khái niệm!", thì các bạn vẫn còn ở vào giai đoạn tiên khởi của thể dạng tự-giải-thoát (auto-libération/self-liberation), tức vẫn còn nắm bắt khái niệm, dù chỉ ở một mức độ nào đó.

 

            Ở cấp bậc thứ hai của sự tự-giải-thoát, dù các tư duyhiện lên đi nữa nhưng chúng sẽ không còn đủ sức tạo ra một sự nối kết nào sau đó, cũng không gây ra một tác động nào (trong giai đoạn tiên khởi thì người hành thiền vẫn còn ý thức được: "Đây là một khái niệm", chính sự sự ý thức đó về một khái niệm cũng là một khái niệm. ở thể dạng lắng sâu hơn trong thiền định thì sự ý thức đó chỉ xảy ra qua một thoáng rung động thật nhẹ nhàng, không mang một ý nghĩa nào cả trên dòng luân lưu của tri thức, và sau đó chỉ là một sự vắng lặng và trống không thật mênh mông). Nếu không tạo được một tác động nào thì các tư duy sẽ tan biến hết. Sự sinh hoạt khái niệm cũng vậy, khi không còn tự duy trì được nữa thì nó sẽ chấm dứt, tương tự như một con rắn quấn thành một nùi tự nó tháo gỡ ra một cách tự nhiên. Sự sinh hoạt khái niệm cũng vậy, không thể làm cho nó dừng lại được bằng bất cứ một liều thuốc hóa giải nào khác hơn là chính nó hay bên ngoài chính nó (nếu mở rộng ý niệm này thì chúng ta phải luôn ý thức rằng đối với một người tu tập Phật giáo thì sự giải thoát chỉ có thể là do nơi mình và bởi chính mình mà thôi. Đó là cách tự mình thoát khỏi những sự sinh sôi của tư duy, xúc cảm  và tác ý của chính mình, nói chung là các phóng tưởng tâm thần dưới các hình thức khái niệm. Chúng quấn vào nhau như những con rắn, và nếu các con rắn ấy ở bên trong tâm thức thì việc tháo gỡ chúng cũng phải xảy ra ở bên trong tâm thức, và bên trong tâm thức thì ngoài thiền định ra sẽ không có một phương pháp nào khác cả. Vì thế thật hết sức rõ ràng  tất cả các" phương tiện thiện xảo" chỉ là các màu mè tôn giáo, các hình thức tín ngưỡng, giúp mình "trở về" với tâm thức mình, thế nhưng đôi khi người tu tập chỉ biết dừng lại với các "phương tiện" đó mà không nghĩ rằng là cần phải đi xa hơn).

 

            Ở cấp bậc thứ ba của sự tự-giải-thoát, và cũng là cấp bậc tối thượngtuyệt vời nhất, có nghĩa là đã quán thấy và duy trì được gương mặt của tâm thức thần bí nhất qua thể dạng đích thật của nó, không một chút méo mó nào, thì sự sinh hoạt khái niệm dù có hiện lên cũng sẽ không còn là một mối nguy hiểm nữa. Sự bảo vệ tâm thức nền tảng sẽ không hề nao núng trước sự sinh hoạt khái niệm, tương tự thí dụ trên đây về tên trộm (sự sinh hoạt khái niệm) thâm nhập vào gian nhà trống không (tâm thức thần bí nhất), gian nhà chẳng có gì để mà mất cắp, tên trộm cũng chẳng tìm thấy gì để mà vơ vét, cũng vậy sự sinh hoạt khái niệm tự nó tan biến (nếu tâm thức mình ở thể dạng "nền tảng tự tại" tức là thể dạng "tâm thức thần bí nhất" và cũng là một thể dạng "hoàn-toàn-trống-không", thì khi đó tâm thức mình cũng sẽ tương tự như một gian nhà không cất chứa bất cứ gì bên trong. Sự "sinh hoạt khái niệm" xuất hiện trong tâm thức và "tên trộm" thâm nhập vào gian nhà, cả hai đều không gây ra một sự nguy hiểm nào cả. Sự "sinh hoạt khái niệm" cũng chỉ là một sự rung động hiện ra và tự tan biến trong tâm thức trống không, tương tự như tên trộm thâm nhập vào gian nhà trống không và ra đi, không vơ vét được gì cả. Dù tên trộm mang bản chất của một tên trộm, nhưng không phải là tên trộm, các sự sôi sục trong tâm thức dù mang bản chất khái niệm, nhưng không phải là khái niệm mà chỉ là một thoáng rung động vô nghĩa xảy ra trong tâm thức mà thôi. Sự sinh hoạt khái niệm và tên trộm không gây ra một tác động nào, không tạo ra một sự "níu kéo" nào hay một sự " nối kết" nào sau đó. Vậy thì thỉnh thoảng người tu tập cũng nên nhìn vào tâm thức mình xem trong đó có cất chứa đủ mọi thứ mà tên trộm ưa thích hay không? Nói một cách cụ thể hơn là trong nội tâm mình có cất chứa những thứ hận thù, đam mê, thương yêu, ghét bỏ, tham lam, hy vọng, nuối tiếc, mong đợi, cầu xin... và cả những thứ kết nối chằng chịt - adventives - do chúng gây ra hay không? Nếu tên trộm lẻn vào được vào một tâm thức đầy ắp những thứ "quý giá" đó thì tất nó sẽ phải vui mừng chẳng khác gì như lọt vào kho báu của A-li-ba-ba vậy).  

 

Trong số các phương cách [luyện tập] về sự tự-giải-thoát thì phương cách thứ ba trên đây là sâu sắc nhất: "Tất cả đã từng hiển lộ như trước đây (các khái niệm tức các tư duy, xúc cảm và tác ý thì cũng chỉ có bấy nhiêu đó, cứ lập đi lập lại, hiện lên rồi biến mất, biến mất rồi lại hiện lên), thế nhưng các phương cách giải thoát thì lại hoàn toàn khác hẳn".

 

 

SỰ TỰ TIN

 

 

            Nếu luyện tập thiền định về tâm thức thần bí nhất nhưng thiếu suy tư tinh tế thì việc luyện tập đó cũng chỉ xoay quanh các sinh hoạt khái niệm, tức là ở một cấp bậc sơ đẳng, mang tính cách tạm thời và phụ thuộc (adventive). Tâm thức đó thấp hơn so với tri thức căn bản tự tại (innate fundamental consciousness), chẳng qua là vì sự sinh hoạt khái niệm đã làm cho nó bị ô nhiễm. Dưới góc nhìn đó thì tri thức ấy cũng chỉ là một thứ tri thức lầm lẫn. Vì vậy người ta thường bảo rằng nếu luyện tập thiền định về tâm thức thần bí nhất mà không dựa vào các sự suy tư tinh tế và các cảm nhận trực tiếp của chính mình, thì sẽ khó tránh khỏi mọi sự lầm lẫn.     

 

            Thế nhưng nếu đủ sức thiền định đúng với những lời chỉ dẫn vô cùng sâu sắc trên đây thì các bạn sẽ không còn cần phải luyện tập thiền định bằng cách dựa vào các sự tạo tác tâm thần nữa. Hơn nữa, các bạn cũng sẽ đạt được sự tự tin và một niềm tin tưởng vững chắc hơn đối với tâm thức thần bí nhất, tức là Dharmakaya/Thân Đạo Pháp: "Nếu thiền định mà không thực hiện được điều đó thì cũng chỉ đưa đến mọi sự lầm lẫn mà thôi. Bất cứ ai hiểu được điều đó [đương nhiên] sẽ thường trú trong Dharmakaya/Thân Đạo Pháp mà không cần phải thiền định thêm về bất cứ gì nữa cả".  

 

            Các bạn nên mượn sự vững tin hiện lên qua sự cảm nhận về sự tự-giải-thoát, và hãy đặt sự vững tin đó đúng vào điểm tối hậu và chủ yếu nhất: "Sự vững tin sẽ hiện lên đúng vào lúc [mà mình] đã loại bỏ được mọi thứ tư duy - và đây cũng là giáo huấn chủ yếu thứ ba".

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette,12.04.18

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14597)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14032)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14924)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16534)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29846)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16191)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15521)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14862)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14854)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17854)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15551)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38627)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26694)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39614)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50714)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38700)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34999)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18275)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16442)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42361)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39202)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35573)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17437)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46473)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17131)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28474)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18966)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17566)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17088)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17525)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16503)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16853)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30802)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16920)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18479)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18426)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17365)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18138)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17046)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23440)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16969)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17442)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17635)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17043)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15715)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18003)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17372)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17160)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29480)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27682)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18145)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16086)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15329)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22982)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14805)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14171)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13232)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14148)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15488)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant