Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

21 Tháng Sáu 201805:10(Xem: 6352)
Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp 

Pháp Hiền

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp



Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời. Nhưng, trong Phật giáo, từ vựng này cũng chiếm một địa vị quan trọng đặc biệt. Nên người học Phật ngày nay rất cần chiêm nghiệm lại nội dung của khái niệm này.

1 Nghiệp’ và ‘hành’

Không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ (karma/kamma) với ‘hành’ (samskara/samkhara). Một số sách tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thường lẫn lộn như vậy, nên đã dịch chữ Karma/Kamma bằng chữ action (hành động! Và dịch chữ samskara/samkhara là mental formation (sự tạo thành trong ý). Được biết có nhiều loại ‘hành’; như thường thấy, có: ‘ý hành’ (sự tác động của ý), ‘khẩu hành’ (sựtác động bằng lời nói) và ‘thân hành’ (sự tác động qua việc làm của thân); trong đó, thông thường, ‘ý hành’ là khởi điểm, từ đó sanh ra những hệ quả là ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’; rồi đến lượt ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’ lại sanh ra những hệ quả của chúng. Như vậy, một cách tổng quát, ‘hành’ nên được hiểu là ‘sự tác động’, và ‘sự tác động của ý’ (‘ý hành’) là quan trọng nhất. Còn ‘nghiệp’ là gì ?

Hãy hình dung việc bắn ra một mũi tên. Việc ‘bắn ra’ là ‘hành’. Và, ngay sau khi được bắn ra, mũi tên bay theo ‘cái trớn’ (cũng gọi là ‘cái đà’) của nó. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ ấy, khá trừu tượngbao gồm ít nhất hai thành tố: hướng bay và vận tốc hay gia tốc bay. Khi biết được ‘cái trớn’ của mũi tên ở một thời điểm T nào đó, người ta có thể tính để biết được mũi tên ấy sẽ rơi ở đâu và vào lúc nào. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ đó, trong vật lý học gọi là momentum, tương đương với ‘nghiệp’ trong Phật giáo; và, như vậy, ‘nghiệp nên được hiểu là spiritual momentum, hay ‘cái trớn tâm linh’. Mọi tác động hay khởi động vật lý nào cũng tạo ra ‘cái trớn’.

Cũng vậy, mọi tác động của thân, khẩu và ý đều tạo ra ‘nghiệp’. Ta có: ‘thân nghiệp’, ‘khẩu nghiệp’ và ‘ý nghiệp’, trong đó ‘ý nghiệp’ là quan trọng nhất. Vô ý làm chết người, cũng tạo ‘nghiệp’, nhưng nghiệp này nhẹ hay thoáng qua, tựa như vẽ hình trên bờ biển sẽ nhanh chóng bị sóng biển xóa mất; trong khi cầm dao đâm vào một bao cát mà nghĩ rằng đang đâm cho chết một kẻ thù nào đó, thì nghiệp này sẽ nặng hay dài lâu, như thể khắc hình sâu trên đá.

2- ‘Nghiệp’ và ‘nhân quả’

Cũng không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ với ‘nhân quả’. Thử nghiệm lại câu nói “Hãy cẩn trọng ý nghĩ của bạn, vì ý nghĩ dẫn đến lời nói; hãy cẩn trọng lời nói của bạn, vì lời nói dẫn đến việc làm; hãy cẩn trọng việc làm của bạn, vì việc làm tạo thành thói quen; hãy cẩn trọng thói quen của bạn, vì thói quen dẫn tới ‘quả báo’”. Đó là một chuỗi ‘nhân quả’ nối tiếp nhau, và tất nhiên nó không dừng lại ở chỗ ‘quả báo’ vì: trên tiến trình vận động, ‘quả’ lại trở thành ‘nhân’, cộng hưởng với nhiều ‘duyên’ khác, dẫn tới những ‘quả’ khác nữa, đồng thời tạo nên rất nhiều tác động phụ. Ở đây, đề nghị lưu ý hai chữ “dẫn tới”, và hãy đặt câu hỏi: Bởi năng lực nào mà có cái sự “dẫn tới” đó ? – Thưa: Bởi ‘nghiệp LỰC’ (lực của ‘cái trớn’). Như vậy: Chính ‘nghiệp LỰC’ tạo nên LUẬT nhân quả. Và khi ‘Luật nhân quả’ được kiểm nhận như là một ‘Luật Thép’, thì ‘nghiệp lực’ cũng được kiểm nhận là không thể vô hiệu hóa được. Tất nhiên, trong một giới hạn nào đó, ta có thể giảm bớtsự cộng hưởng của ‘nghiệp’ với những ‘duyên’ khác, đồng thời giảm bớt những tác động phụ do nghiệp gây ra, trên tiến trình vận động hay chuyển biến của nó.

Mấy điều ghi trên, phải chăng là trái với điều mà hầu hết các sách đều cho rằng: sau khi đã tạo ra ‘nhân’ bất thiệnnếu không tạo ‘duyên’ cho nhân này nẩy nở, thì sẽ khỏi phải gặp lấy ‘quả’ bất thiện? Ở đây, cần phân biệt ‘lý tắc nhân quả’ (causality) và ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng gọi là ‘nhân duyên sanh’ (causation). Và cần hiểu rằng ‘nhân’, cũng như ‘quả’, trong quan hệ ‘nhân nào quả nấy’ của ‘lý tắc nhân quả’, chính nó cũng là một ‘tổ hợp nhân duyên’. Khi ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’ thay đổi tính cách, thì ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘quả’ của nó cũng tương ưng theo. Sự thay đổi này rất có thể thực hiện được, nhưng chỉ được thực hiện trong ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’. Tuy có sự thay đổi như vậy nhưng nguyên tắc “nhân nào quả nấy”, của ‘lý tắc nhân quả’, vẫn không hề bị sai phạm; và ‘nghiệp lực’ vẫn thể hiện công năng của nó.

3- “Chuyển nghiệp” và “dứt nghiệp

Được biết: 1. Sự tác động hay khởi động, như việc bắn ra mũi tên nêu trên, cũng gọi là ‘nhân’ trong quan hệ ‘nhân quả’, một khi đã được thực hiện thì không thể trở lại được; mà ‘quả’ thì chưa có, chỉ có cái ‘nghiệp’ đang vận hành. 2. Mỗi chúng sanh, hay mỗi người chúng ta, đều đã trải qua vô sốkiếp trong quá khứ, và bởi ‘nghiệp’ trước mà sanh ra ở đời này; cũng chính cái ‘nghiệp’ ấy nó chi phối hay khống chế mọi tư duynhận biếtlời nói, ứng xử… của ta; tức là các ‘nghiệp’ mới do ý nghĩlời nói và việc làm của ta tạo ra trong kiếp sống này, trên nguyên tắc, cũng đều bị khống chế, lập trình, định hướng bởi ‘nghiệp’. Trong khi, ở trên lại nói: ‘Luật nhân quả’ là một ‘Luật Thép’, và ‘nghiệp lực’ là không thể vô hiệu hóa được. Vậy, vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ phải được hiểu như thế nào?

Cần lưu ý rằng: 1. Mọi tác động hay khởi động đều tạo ra ‘nghiệp’ (trớn hay đà); như vậy, ‘nghiệp’ là pháp ‘được tạo thành’ (do duyên sanh, hay hữu vi), tức là không có tự thể riêng và chịu luật ‘vô thường’, chứ không thể tồn tại mãi mãi. 2. Trong tiến trình vận hành của ‘nghiệp’, như chuỗi nhân quả nối tiếp nhau nêu trong đoạn I: ‘nhân’ đầu (N1) dẫn tới ‘quả’ đầu (Q1); ‘quả’ N1 này lại thành ‘nhân’ (N2), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q2); ‘quả’ Q2 này lại thành ‘nhân’ (N3), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q3); cứ thế tiếp tục. Thế nên ‘nghiệp lực’ có thể được tăng thêm hay giảm bớtđồng thời nó cũng tạo ra nhiều tác động bậc 2, 3, 4..., tạo thành một chuỗi, tựa như chuỗi ‘12 nhân duyên’ mà Đức Phật đã dạy; trong đó, mỗi ‘mắt xích’ là một ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng là chỗ có thể cải tạo haychuyển hóa được. Tức là có thể thực hiện được việc ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’.

Ở trình độ con người, sự việc diễn ra không đơn giản như chuyện mũi tên nêu trên, vì trong mỗicon người vốn có sẵn khả năng tự dự phóng cho mình cái ‘nên là’. Và sự hiện hữu thực sự của mỗi người thể hiện qua ý chí huy động năng lực này để ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ của mình; ngược lại, nếu buông thả theo sự đưa đẩy của ‘nghiệp’ dẫn đến cái ‘sẽ là’, như một loại ‘tiền định’ của thuyết ‘định mệnh’, thì người ấy không thực sự hiện hữu.

Bây giờ chúng ta hãy hình dung, thay thế mũi tên bằng một phi thuyền, có năng lực nội tại và người lái, đang bay. Và:

- ‘Dứt nghiệp’, tương tự việc người lái tắt hết các máy, chỉ nương theo cái trớn còn lại đưa phi thuyền đáp xuống nơi an toàn nhất. Truyền thống ‘tiểu thừa’ (khác với Theravada ngày nay, đã có nhiều thay đổi) đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu, họ giữ giới nghiêm tịnhđóng cửa các ‘căn’ (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân), tránh tối đa việc tiếp xúc với cõi đời mà theo họ là ô uế, thanh tịnh tâm ý, dứt sạch mọi chấp bám mong cầu, đạt quả vị A-la-hán, đợi hết ‘nghiệp’ cũ nhập ‘Vô dư Niết-bàn’.

 - ‘Chuyển nghiệp’, tương tự việc người lái vừa lợi dụng cái trớn đang có vừa vận dụng năng lựcnội tại để tăng tốc và lái phi thuyền bay sang hướng khác. Truyền thống ‘đại thừa’ đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu họ vượt ‘ngã chấp’ và ‘pháp chấp’, từ bỏ mọi mục đích vì bản thân và phát đại nguyện “thành Phật cứu độ chúng sanh”, chẳng những không lánh đời mà còn phải gắn bó với mọi chúng sanh bằng cách thực hành nhiều phương tiện thiện xảo, v.v. Pháp môn Tịnh độcũng chủ yếu dựa trên sự phát nguyện có tính chuyển nghiệp này (nguyện vãng sanh cũng nằm trong đại nguyện nên trên).

Thiền tông không đặt vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’. Họ chỉ chú trọng việc nắm bắt,thâm nhập và an lập trong thực tính vốn thanh tịnh của mọi pháp (hiện tượng), trong đó có cả ‘nghiệp’.

4- “Cộng nghiệp” và “biệt nghiệp” ‘

Cộng nghiệp’ là nghiệp của cái ‘toàn thể’, còn ‘biệt nghiệp’ là nghiệp của mỗi ‘thành phần’ (hay ‘thành viên’) cấu thành cái ‘toàn thể’ đó. Ví dụ như, gia đình là một ‘toàn thể’ được cấu thành bởi các thành viên của nó, gồm: cha mẹ, các người con…, nhưng gia đình là một ‘đương thể’ (entity)hoàn toàn khác với mỗi thành viên của nó, cũng hoàn toàn khác với cái ‘tổng thể’ của các thành viên đó. Bởi vì gia đình không phải chỉ được cấu thành bởi những thành phần thuộc dạng vật thể (như cha, mẹ, các con…) mà còn bởi các thành phần phi vật thể (như gia phong, truyền thống…). Do chỗ khác biệt này mà, khi những người cha mẹ đã qua đời, gia đình vẫn tiếp tục tồn tại, với những ‘thành phần cấu thành’ mới (khác) của nó và trong những điều kiện khác của hoàn cảnh – cái ‘toàn thể’ gia đình, dù phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó (nó không có ‘tự thể’ riêng và chịu luật vô thường), nhưng nó hiện hữu và tồn tại dài lâu, đồng thời vẫn luôn luôn chuyển biếnhay vận động, theo cái ‘nghiệp’ của nó, chứ không phải là bất biến. Ở phạm vi lớn hơn, cái làng chẳng hạn, làng là ‘toàn thể’, được cấu thành bởi nhiều gia đình; ở mức độ này, ‘nghiệp’ của gia đình lại là ‘biệt nghiệp’, so với ‘nghiệp’ của làng là ‘cộng nghiệp’. Cũng vậy, nhìn mở rộng ra thêm nữa, ở phạm vi quốc gia – dân tộc, đến toàn thế giới – nhân loạivân vân.

Ở mức độ mỗi thành viên gia đình, mỗi người (cha, mẹ, con…), gọi một cách tổng quát là mỗi ‘nhân thể’ (person/pudgala), đều là một ‘toàn thể’, được cấu thành bởi năm ‘uẩn’ (sắc – thành phần vật thể -, thọ, tưởng, hành và thức – các thành phần phi vật thể) – nó không có ‘tự thể’ riêng (phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó) và chịu luật vô thường, nhưng nó hiện hữu và hoàn toànkhác biệt với các ‘thành phần cấu thành’ đó. Trong trường hợp này, cái nghiệp của mỗi ‘nhân thể’ là ‘cộng nghiệp’, và cái nghiệp của mỗi ‘uẩn’ là ‘biệt nghiệp’. Do chỗ khác biệt này mà, khi một vài ‘uẩn’ (‘sắc uẩn’, ‘thọ uẩn’, ‘hành uẩn’, chẳng hạn) tan rã (chết), cái ‘nhân thể’ (toàn thể) vẫn tiếp tụctồn tại - mà nhiều người gọi đó là ‘linh hồn’, hay ‘vong linh v.v., và tiếp tục chuyển biến theo cái ‘nghiệp’ của nó, hay ‘đầu thai’ vào trong những điều kiện sống mới: hoặc ở dạng phi vật thể (ở ‘cõi vô sắc’), với nhiều tầng mức khác nhau: chỉ có ‘thức uẩn’, có ‘ thức uẩn’ và ‘hành uẩn’, có ‘thức uẩn’ ‘hành uẩn’ và ‘tưởng uẩn’, hay có cả bốn uẩn phi vật thể (thọ, tưởng, hành và thức); hoặc dưới dạng ‘sắc thể’ vi tế mà mặt thường không thấy được (ở ‘cõi sắc’); hoặc sanh trở lại ở ‘cõi dục’, làm người, A-tu-la, súc sanh…

5- ‘Cận tử nghiệp’ ‘

Cận tử nghiệp’ của một người (‘nhân thể’/pudgala) là cái ‘nghiệp’ hay ‘cái trớn tâm linh’ hiện diệntrong lúc thân mạng của ‘nhân thể’ đó đang trong tiến trình tan rã. Sau khi rời bỏ xác thân, ‘nhân thể’ đó vẫn tồn tại dưới dạng không có xác thể (thường được gọi là ‘linh hồn’ hay ‘vong linh’). Tức là cái ‘nghiệp’ cận tử ấy vẫn tồn tại và, bằng năng lực của nó, tiếp tục hành hoạt, dẫn đưa ‘nhân thể’ ấy đến nơi tương ứng (đã được ký giữ trước trong nghiệp).

Và, câu hỏi được đặt ra là: Có thể cải tạo ‘cận tử nghiệp’ không? Trừ một số trường hợp cực kỳ hiếm hoi, nói chung: không thể cải tạo được ‘cận tử nghiệp’. Bởi vì, sau khi thực sự rời bỏ thân mạng này và trước khi thọ nhận thân mạng tiếp theo, tức là đang trong ‘hiện thể trung gian’ (‘trung ấm’/antarâbhava), ‘nhân thể’ ấy không còn năng lực nào nữa ngoài ‘nghiệp lực’; mà ‘nghiệp lực’ thì không thể cải tạo ‘nghiệp lực’ được.

Thế nhưng, trước khi thực sự rời bỏ thân mạng, có thể thay thế ‘cận tử nghiệp’ này bằng một ‘cận tử nghiệp’ khác. Do chỗ mỗi người chúng ta đều đã trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ, đã nhiều lần được sanh về các cõi cao lành, cũng như đã nhiều lần bị sanh vào các cỡi thấp dữ; tất cả các trải nghiệm đó đều đã được ký giữ trong ‘tàng thức’ dưới dạng ‘chủng tử’. Và, ngay trước khi thực sự rời bỏ thân mạng (cận tử), bằng một phương pháp đặc biệt (nhờ bạn đạo đọc kinh tiếp dẫn, nhờ một vị thầy chuyên tu pháp môn này…), một ‘chủng tử’ cao lành được nhắc nhớ, được đưa lên lại ở phần ý thức và được khởi động; như vậy, ‘cận tử nghiệp’ đã được thay thế. Và ‘cận tử nghiệp’ mới này tiếp tục hành hoạt sau

6- Nghiệp và ‘vô ngã’

Cái ‘nhân thể’ (person/pudgala) ấy được gọi một cách phổ thông là “cái tôi” hay “cái ta”. Có vẻ trái ngược với pháp lý ‘vô ngã’ (‘không có cái tôi’) của nhà Phật chăng? Chúng ta cần xem lại pháp lý ‘vô ngã’.

Một cách tổng quát, giáo thuyết bản thể học của Bàla-môn giáo cho rằng có một Brahmà (thường được dịch là ‘Đại hồn’ hay Đại ngã, cũng gọi là Đấng tối cao), là trung tâm của sự sống của cái ‘Toàn thể vũ trụ’; từ đó phóng ra vô số tia năng lượng mà mỗi tia hóa hiện thành Atma (hay Atta, thường được dịch là ‘linh hồn’, hay ‘linh thể’, hay ‘tiểu hồn/ngã’), là trung tâm của sự sống của mỗicá thể chúng sanh (con người). Atma vốn cùng một tính thể với Brahman, tức cũng là một ‘tự thể’ thường còn bất biến trong mỗi chúng sanh (con người). Nhưng vì trải qua bao kiếp trầm luân, sống trong sự ràng buộc của thể xác và của bản năng động vật, Atma/Atta nơi chúng sanh (con người) bị che lấp, bị bỏ quên, bị đánh mất... Từ luận điểm này, họ đưa ra phương hướng tu, với nhiềuphương cách khác nhau, nhằm làm sáng tỏ lại Atma/Atta vốn sẵn có trong chính mình, và đưa nótrở lại nhập làm một với Brahma vốn là ‘điểm phát sanh nguyên thủy’ của nó. Và giáo thuyết Anatma Anatta của Đức Phật là nhằm phủ bác giáo thuyết bản thể học nói trên ; mà có thể là Đức Phật xác quyết rằng: không hề có cái Atma (an-Atm/anAtta), tức không hề có cái gì là ‘tự thể’ thường còn bất biến, trong mỗi ‘nhân thể con người vốn chỉ được cấu thành bởi năm ‘uẩn’: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, cả năm đều luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’; do đó, ‘nhân thể’ cũng luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’.

Giáo thuyết Anatma / Anatta của Đức Phật, như vậy, là hoàn toàn có thể hiểu được, hay kiểm nhận được, ngay cả trong phạm trù hiện tượng giới (tục đế). Nhưng khi chuyển sang Hán văn, Anatma được dịch là ‘vô ngã’, và được hiểu là “không có cái tôi/ta”, đến “không có cả cái nhân thể”. Cách dịch này rõ ràng đã lệch ý hàng vạn dặm, rồi cùng với cách hiểu nêu trên, nó đưa tới nhiều rối rắm trên bình diện triết học và luận lý học!!! Chẳng hạn như ta có thể nêu câu hỏi: Nếu không có ‘cái tôi/ta’ hay ‘cái nhân thể’, thì Thái tử Tất-đạt-đa là cái gì? Ai (hay cái gì) đã trải qua vô lượng kiếp vàcuối cùng thành Phật, hiệu là Thích Ca? Và còn hàng loạt câu hỏi khác có thể được nêu ra.

Có người cho rằng nên xem thực trạng ‘vô ngã’, gồm cả thực trạng ‘không có nhân thể’, là thuộcChân thật giới (Chân đế) và là một trong các thành quả tối hậu của quá trình tu chứng. Trong khi ‘nghiệp’ là một pháp hữu vi, được sanh ra, tất nhiên là thuộc hiện tượng giới (tục đế); nó hiện hữucùng với cái ‘nhân thể’, chứ không phải với cái Atma vốn không hề có; khi tu đạt đến thực trạng ‘vô ngã’, thì cả ‘nhân thể’ và ‘nghiệp’ đều là ‘vô’. Đây cũng là một cách lý giải, nhưng một cách đơn giản hơn, chỉ cần trở về với giáo thuyết Anatma/Anatta nguyên thủy thời ‘nghiệp’ và an-Atma (an-Atta) như vừa nêu trên, hoàn toàn không có gì mâu thuẫn nhau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10666)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13392)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11288)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9199)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14301)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7161)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32318)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12930)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20712)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 38919)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7009)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8819)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6631)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9628)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9336)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 7921)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11574)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 15974)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9479)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12099)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8646)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15363)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7877)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17590)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8511)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8145)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10378)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15687)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17346)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7784)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12753)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7858)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8468)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9620)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10198)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 22973)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19144)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 9874)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8080)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 23976)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8643)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8313)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7851)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17556)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9345)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8083)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24106)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24397)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8252)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8115)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7691)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7719)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8874)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 25950)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13649)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27756)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19760)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7660)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7509)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7370)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant