Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

21 Tháng Sáu 201805:10(Xem: 6454)
Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp 

Pháp Hiền

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp



Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời. Nhưng, trong Phật giáo, từ vựng này cũng chiếm một địa vị quan trọng đặc biệt. Nên người học Phật ngày nay rất cần chiêm nghiệm lại nội dung của khái niệm này.

1 Nghiệp’ và ‘hành’

Không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ (karma/kamma) với ‘hành’ (samskara/samkhara). Một số sách tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thường lẫn lộn như vậy, nên đã dịch chữ Karma/Kamma bằng chữ action (hành động! Và dịch chữ samskara/samkhara là mental formation (sự tạo thành trong ý). Được biết có nhiều loại ‘hành’; như thường thấy, có: ‘ý hành’ (sự tác động của ý), ‘khẩu hành’ (sựtác động bằng lời nói) và ‘thân hành’ (sự tác động qua việc làm của thân); trong đó, thông thường, ‘ý hành’ là khởi điểm, từ đó sanh ra những hệ quả là ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’; rồi đến lượt ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’ lại sanh ra những hệ quả của chúng. Như vậy, một cách tổng quát, ‘hành’ nên được hiểu là ‘sự tác động’, và ‘sự tác động của ý’ (‘ý hành’) là quan trọng nhất. Còn ‘nghiệp’ là gì ?

Hãy hình dung việc bắn ra một mũi tên. Việc ‘bắn ra’ là ‘hành’. Và, ngay sau khi được bắn ra, mũi tên bay theo ‘cái trớn’ (cũng gọi là ‘cái đà’) của nó. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ ấy, khá trừu tượngbao gồm ít nhất hai thành tố: hướng bay và vận tốc hay gia tốc bay. Khi biết được ‘cái trớn’ của mũi tên ở một thời điểm T nào đó, người ta có thể tính để biết được mũi tên ấy sẽ rơi ở đâu và vào lúc nào. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ đó, trong vật lý học gọi là momentum, tương đương với ‘nghiệp’ trong Phật giáo; và, như vậy, ‘nghiệp nên được hiểu là spiritual momentum, hay ‘cái trớn tâm linh’. Mọi tác động hay khởi động vật lý nào cũng tạo ra ‘cái trớn’.

Cũng vậy, mọi tác động của thân, khẩu và ý đều tạo ra ‘nghiệp’. Ta có: ‘thân nghiệp’, ‘khẩu nghiệp’ và ‘ý nghiệp’, trong đó ‘ý nghiệp’ là quan trọng nhất. Vô ý làm chết người, cũng tạo ‘nghiệp’, nhưng nghiệp này nhẹ hay thoáng qua, tựa như vẽ hình trên bờ biển sẽ nhanh chóng bị sóng biển xóa mất; trong khi cầm dao đâm vào một bao cát mà nghĩ rằng đang đâm cho chết một kẻ thù nào đó, thì nghiệp này sẽ nặng hay dài lâu, như thể khắc hình sâu trên đá.

2- ‘Nghiệp’ và ‘nhân quả’

Cũng không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ với ‘nhân quả’. Thử nghiệm lại câu nói “Hãy cẩn trọng ý nghĩ của bạn, vì ý nghĩ dẫn đến lời nói; hãy cẩn trọng lời nói của bạn, vì lời nói dẫn đến việc làm; hãy cẩn trọng việc làm của bạn, vì việc làm tạo thành thói quen; hãy cẩn trọng thói quen của bạn, vì thói quen dẫn tới ‘quả báo’”. Đó là một chuỗi ‘nhân quả’ nối tiếp nhau, và tất nhiên nó không dừng lại ở chỗ ‘quả báo’ vì: trên tiến trình vận động, ‘quả’ lại trở thành ‘nhân’, cộng hưởng với nhiều ‘duyên’ khác, dẫn tới những ‘quả’ khác nữa, đồng thời tạo nên rất nhiều tác động phụ. Ở đây, đề nghị lưu ý hai chữ “dẫn tới”, và hãy đặt câu hỏi: Bởi năng lực nào mà có cái sự “dẫn tới” đó ? – Thưa: Bởi ‘nghiệp LỰC’ (lực của ‘cái trớn’). Như vậy: Chính ‘nghiệp LỰC’ tạo nên LUẬT nhân quả. Và khi ‘Luật nhân quả’ được kiểm nhận như là một ‘Luật Thép’, thì ‘nghiệp lực’ cũng được kiểm nhận là không thể vô hiệu hóa được. Tất nhiên, trong một giới hạn nào đó, ta có thể giảm bớtsự cộng hưởng của ‘nghiệp’ với những ‘duyên’ khác, đồng thời giảm bớt những tác động phụ do nghiệp gây ra, trên tiến trình vận động hay chuyển biến của nó.

Mấy điều ghi trên, phải chăng là trái với điều mà hầu hết các sách đều cho rằng: sau khi đã tạo ra ‘nhân’ bất thiệnnếu không tạo ‘duyên’ cho nhân này nẩy nở, thì sẽ khỏi phải gặp lấy ‘quả’ bất thiện? Ở đây, cần phân biệt ‘lý tắc nhân quả’ (causality) và ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng gọi là ‘nhân duyên sanh’ (causation). Và cần hiểu rằng ‘nhân’, cũng như ‘quả’, trong quan hệ ‘nhân nào quả nấy’ của ‘lý tắc nhân quả’, chính nó cũng là một ‘tổ hợp nhân duyên’. Khi ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’ thay đổi tính cách, thì ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘quả’ của nó cũng tương ưng theo. Sự thay đổi này rất có thể thực hiện được, nhưng chỉ được thực hiện trong ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’. Tuy có sự thay đổi như vậy nhưng nguyên tắc “nhân nào quả nấy”, của ‘lý tắc nhân quả’, vẫn không hề bị sai phạm; và ‘nghiệp lực’ vẫn thể hiện công năng của nó.

3- “Chuyển nghiệp” và “dứt nghiệp

Được biết: 1. Sự tác động hay khởi động, như việc bắn ra mũi tên nêu trên, cũng gọi là ‘nhân’ trong quan hệ ‘nhân quả’, một khi đã được thực hiện thì không thể trở lại được; mà ‘quả’ thì chưa có, chỉ có cái ‘nghiệp’ đang vận hành. 2. Mỗi chúng sanh, hay mỗi người chúng ta, đều đã trải qua vô sốkiếp trong quá khứ, và bởi ‘nghiệp’ trước mà sanh ra ở đời này; cũng chính cái ‘nghiệp’ ấy nó chi phối hay khống chế mọi tư duynhận biếtlời nói, ứng xử… của ta; tức là các ‘nghiệp’ mới do ý nghĩlời nói và việc làm của ta tạo ra trong kiếp sống này, trên nguyên tắc, cũng đều bị khống chế, lập trình, định hướng bởi ‘nghiệp’. Trong khi, ở trên lại nói: ‘Luật nhân quả’ là một ‘Luật Thép’, và ‘nghiệp lực’ là không thể vô hiệu hóa được. Vậy, vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ phải được hiểu như thế nào?

Cần lưu ý rằng: 1. Mọi tác động hay khởi động đều tạo ra ‘nghiệp’ (trớn hay đà); như vậy, ‘nghiệp’ là pháp ‘được tạo thành’ (do duyên sanh, hay hữu vi), tức là không có tự thể riêng và chịu luật ‘vô thường’, chứ không thể tồn tại mãi mãi. 2. Trong tiến trình vận hành của ‘nghiệp’, như chuỗi nhân quả nối tiếp nhau nêu trong đoạn I: ‘nhân’ đầu (N1) dẫn tới ‘quả’ đầu (Q1); ‘quả’ N1 này lại thành ‘nhân’ (N2), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q2); ‘quả’ Q2 này lại thành ‘nhân’ (N3), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q3); cứ thế tiếp tục. Thế nên ‘nghiệp lực’ có thể được tăng thêm hay giảm bớtđồng thời nó cũng tạo ra nhiều tác động bậc 2, 3, 4..., tạo thành một chuỗi, tựa như chuỗi ‘12 nhân duyên’ mà Đức Phật đã dạy; trong đó, mỗi ‘mắt xích’ là một ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng là chỗ có thể cải tạo haychuyển hóa được. Tức là có thể thực hiện được việc ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’.

Ở trình độ con người, sự việc diễn ra không đơn giản như chuyện mũi tên nêu trên, vì trong mỗicon người vốn có sẵn khả năng tự dự phóng cho mình cái ‘nên là’. Và sự hiện hữu thực sự của mỗi người thể hiện qua ý chí huy động năng lực này để ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ của mình; ngược lại, nếu buông thả theo sự đưa đẩy của ‘nghiệp’ dẫn đến cái ‘sẽ là’, như một loại ‘tiền định’ của thuyết ‘định mệnh’, thì người ấy không thực sự hiện hữu.

Bây giờ chúng ta hãy hình dung, thay thế mũi tên bằng một phi thuyền, có năng lực nội tại và người lái, đang bay. Và:

- ‘Dứt nghiệp’, tương tự việc người lái tắt hết các máy, chỉ nương theo cái trớn còn lại đưa phi thuyền đáp xuống nơi an toàn nhất. Truyền thống ‘tiểu thừa’ (khác với Theravada ngày nay, đã có nhiều thay đổi) đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu, họ giữ giới nghiêm tịnhđóng cửa các ‘căn’ (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân), tránh tối đa việc tiếp xúc với cõi đời mà theo họ là ô uế, thanh tịnh tâm ý, dứt sạch mọi chấp bám mong cầu, đạt quả vị A-la-hán, đợi hết ‘nghiệp’ cũ nhập ‘Vô dư Niết-bàn’.

 - ‘Chuyển nghiệp’, tương tự việc người lái vừa lợi dụng cái trớn đang có vừa vận dụng năng lựcnội tại để tăng tốc và lái phi thuyền bay sang hướng khác. Truyền thống ‘đại thừa’ đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu họ vượt ‘ngã chấp’ và ‘pháp chấp’, từ bỏ mọi mục đích vì bản thân và phát đại nguyện “thành Phật cứu độ chúng sanh”, chẳng những không lánh đời mà còn phải gắn bó với mọi chúng sanh bằng cách thực hành nhiều phương tiện thiện xảo, v.v. Pháp môn Tịnh độcũng chủ yếu dựa trên sự phát nguyện có tính chuyển nghiệp này (nguyện vãng sanh cũng nằm trong đại nguyện nên trên).

Thiền tông không đặt vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’. Họ chỉ chú trọng việc nắm bắt,thâm nhập và an lập trong thực tính vốn thanh tịnh của mọi pháp (hiện tượng), trong đó có cả ‘nghiệp’.

4- “Cộng nghiệp” và “biệt nghiệp” ‘

Cộng nghiệp’ là nghiệp của cái ‘toàn thể’, còn ‘biệt nghiệp’ là nghiệp của mỗi ‘thành phần’ (hay ‘thành viên’) cấu thành cái ‘toàn thể’ đó. Ví dụ như, gia đình là một ‘toàn thể’ được cấu thành bởi các thành viên của nó, gồm: cha mẹ, các người con…, nhưng gia đình là một ‘đương thể’ (entity)hoàn toàn khác với mỗi thành viên của nó, cũng hoàn toàn khác với cái ‘tổng thể’ của các thành viên đó. Bởi vì gia đình không phải chỉ được cấu thành bởi những thành phần thuộc dạng vật thể (như cha, mẹ, các con…) mà còn bởi các thành phần phi vật thể (như gia phong, truyền thống…). Do chỗ khác biệt này mà, khi những người cha mẹ đã qua đời, gia đình vẫn tiếp tục tồn tại, với những ‘thành phần cấu thành’ mới (khác) của nó và trong những điều kiện khác của hoàn cảnh – cái ‘toàn thể’ gia đình, dù phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó (nó không có ‘tự thể’ riêng và chịu luật vô thường), nhưng nó hiện hữu và tồn tại dài lâu, đồng thời vẫn luôn luôn chuyển biếnhay vận động, theo cái ‘nghiệp’ của nó, chứ không phải là bất biến. Ở phạm vi lớn hơn, cái làng chẳng hạn, làng là ‘toàn thể’, được cấu thành bởi nhiều gia đình; ở mức độ này, ‘nghiệp’ của gia đình lại là ‘biệt nghiệp’, so với ‘nghiệp’ của làng là ‘cộng nghiệp’. Cũng vậy, nhìn mở rộng ra thêm nữa, ở phạm vi quốc gia – dân tộc, đến toàn thế giới – nhân loạivân vân.

Ở mức độ mỗi thành viên gia đình, mỗi người (cha, mẹ, con…), gọi một cách tổng quát là mỗi ‘nhân thể’ (person/pudgala), đều là một ‘toàn thể’, được cấu thành bởi năm ‘uẩn’ (sắc – thành phần vật thể -, thọ, tưởng, hành và thức – các thành phần phi vật thể) – nó không có ‘tự thể’ riêng (phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó) và chịu luật vô thường, nhưng nó hiện hữu và hoàn toànkhác biệt với các ‘thành phần cấu thành’ đó. Trong trường hợp này, cái nghiệp của mỗi ‘nhân thể’ là ‘cộng nghiệp’, và cái nghiệp của mỗi ‘uẩn’ là ‘biệt nghiệp’. Do chỗ khác biệt này mà, khi một vài ‘uẩn’ (‘sắc uẩn’, ‘thọ uẩn’, ‘hành uẩn’, chẳng hạn) tan rã (chết), cái ‘nhân thể’ (toàn thể) vẫn tiếp tụctồn tại - mà nhiều người gọi đó là ‘linh hồn’, hay ‘vong linh v.v., và tiếp tục chuyển biến theo cái ‘nghiệp’ của nó, hay ‘đầu thai’ vào trong những điều kiện sống mới: hoặc ở dạng phi vật thể (ở ‘cõi vô sắc’), với nhiều tầng mức khác nhau: chỉ có ‘thức uẩn’, có ‘ thức uẩn’ và ‘hành uẩn’, có ‘thức uẩn’ ‘hành uẩn’ và ‘tưởng uẩn’, hay có cả bốn uẩn phi vật thể (thọ, tưởng, hành và thức); hoặc dưới dạng ‘sắc thể’ vi tế mà mặt thường không thấy được (ở ‘cõi sắc’); hoặc sanh trở lại ở ‘cõi dục’, làm người, A-tu-la, súc sanh…

5- ‘Cận tử nghiệp’ ‘

Cận tử nghiệp’ của một người (‘nhân thể’/pudgala) là cái ‘nghiệp’ hay ‘cái trớn tâm linh’ hiện diệntrong lúc thân mạng của ‘nhân thể’ đó đang trong tiến trình tan rã. Sau khi rời bỏ xác thân, ‘nhân thể’ đó vẫn tồn tại dưới dạng không có xác thể (thường được gọi là ‘linh hồn’ hay ‘vong linh’). Tức là cái ‘nghiệp’ cận tử ấy vẫn tồn tại và, bằng năng lực của nó, tiếp tục hành hoạt, dẫn đưa ‘nhân thể’ ấy đến nơi tương ứng (đã được ký giữ trước trong nghiệp).

Và, câu hỏi được đặt ra là: Có thể cải tạo ‘cận tử nghiệp’ không? Trừ một số trường hợp cực kỳ hiếm hoi, nói chung: không thể cải tạo được ‘cận tử nghiệp’. Bởi vì, sau khi thực sự rời bỏ thân mạng này và trước khi thọ nhận thân mạng tiếp theo, tức là đang trong ‘hiện thể trung gian’ (‘trung ấm’/antarâbhava), ‘nhân thể’ ấy không còn năng lực nào nữa ngoài ‘nghiệp lực’; mà ‘nghiệp lực’ thì không thể cải tạo ‘nghiệp lực’ được.

Thế nhưng, trước khi thực sự rời bỏ thân mạng, có thể thay thế ‘cận tử nghiệp’ này bằng một ‘cận tử nghiệp’ khác. Do chỗ mỗi người chúng ta đều đã trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ, đã nhiều lần được sanh về các cõi cao lành, cũng như đã nhiều lần bị sanh vào các cỡi thấp dữ; tất cả các trải nghiệm đó đều đã được ký giữ trong ‘tàng thức’ dưới dạng ‘chủng tử’. Và, ngay trước khi thực sự rời bỏ thân mạng (cận tử), bằng một phương pháp đặc biệt (nhờ bạn đạo đọc kinh tiếp dẫn, nhờ một vị thầy chuyên tu pháp môn này…), một ‘chủng tử’ cao lành được nhắc nhớ, được đưa lên lại ở phần ý thức và được khởi động; như vậy, ‘cận tử nghiệp’ đã được thay thế. Và ‘cận tử nghiệp’ mới này tiếp tục hành hoạt sau

6- Nghiệp và ‘vô ngã’

Cái ‘nhân thể’ (person/pudgala) ấy được gọi một cách phổ thông là “cái tôi” hay “cái ta”. Có vẻ trái ngược với pháp lý ‘vô ngã’ (‘không có cái tôi’) của nhà Phật chăng? Chúng ta cần xem lại pháp lý ‘vô ngã’.

Một cách tổng quát, giáo thuyết bản thể học của Bàla-môn giáo cho rằng có một Brahmà (thường được dịch là ‘Đại hồn’ hay Đại ngã, cũng gọi là Đấng tối cao), là trung tâm của sự sống của cái ‘Toàn thể vũ trụ’; từ đó phóng ra vô số tia năng lượng mà mỗi tia hóa hiện thành Atma (hay Atta, thường được dịch là ‘linh hồn’, hay ‘linh thể’, hay ‘tiểu hồn/ngã’), là trung tâm của sự sống của mỗicá thể chúng sanh (con người). Atma vốn cùng một tính thể với Brahman, tức cũng là một ‘tự thể’ thường còn bất biến trong mỗi chúng sanh (con người). Nhưng vì trải qua bao kiếp trầm luân, sống trong sự ràng buộc của thể xác và của bản năng động vật, Atma/Atta nơi chúng sanh (con người) bị che lấp, bị bỏ quên, bị đánh mất... Từ luận điểm này, họ đưa ra phương hướng tu, với nhiềuphương cách khác nhau, nhằm làm sáng tỏ lại Atma/Atta vốn sẵn có trong chính mình, và đưa nótrở lại nhập làm một với Brahma vốn là ‘điểm phát sanh nguyên thủy’ của nó. Và giáo thuyết Anatma Anatta của Đức Phật là nhằm phủ bác giáo thuyết bản thể học nói trên ; mà có thể là Đức Phật xác quyết rằng: không hề có cái Atma (an-Atm/anAtta), tức không hề có cái gì là ‘tự thể’ thường còn bất biến, trong mỗi ‘nhân thể con người vốn chỉ được cấu thành bởi năm ‘uẩn’: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, cả năm đều luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’; do đó, ‘nhân thể’ cũng luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’.

Giáo thuyết Anatma / Anatta của Đức Phật, như vậy, là hoàn toàn có thể hiểu được, hay kiểm nhận được, ngay cả trong phạm trù hiện tượng giới (tục đế). Nhưng khi chuyển sang Hán văn, Anatma được dịch là ‘vô ngã’, và được hiểu là “không có cái tôi/ta”, đến “không có cả cái nhân thể”. Cách dịch này rõ ràng đã lệch ý hàng vạn dặm, rồi cùng với cách hiểu nêu trên, nó đưa tới nhiều rối rắm trên bình diện triết học và luận lý học!!! Chẳng hạn như ta có thể nêu câu hỏi: Nếu không có ‘cái tôi/ta’ hay ‘cái nhân thể’, thì Thái tử Tất-đạt-đa là cái gì? Ai (hay cái gì) đã trải qua vô lượng kiếp vàcuối cùng thành Phật, hiệu là Thích Ca? Và còn hàng loạt câu hỏi khác có thể được nêu ra.

Có người cho rằng nên xem thực trạng ‘vô ngã’, gồm cả thực trạng ‘không có nhân thể’, là thuộcChân thật giới (Chân đế) và là một trong các thành quả tối hậu của quá trình tu chứng. Trong khi ‘nghiệp’ là một pháp hữu vi, được sanh ra, tất nhiên là thuộc hiện tượng giới (tục đế); nó hiện hữucùng với cái ‘nhân thể’, chứ không phải với cái Atma vốn không hề có; khi tu đạt đến thực trạng ‘vô ngã’, thì cả ‘nhân thể’ và ‘nghiệp’ đều là ‘vô’. Đây cũng là một cách lý giải, nhưng một cách đơn giản hơn, chỉ cần trở về với giáo thuyết Anatma/Anatta nguyên thủy thời ‘nghiệp’ và an-Atma (an-Atta) như vừa nêu trên, hoàn toàn không có gì mâu thuẫn nhau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13204)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19356)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24613)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15738)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37817)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13471)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13091)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17171)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13202)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17382)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21631)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13215)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14389)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12811)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13651)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28598)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23390)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34372)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28868)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32179)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11326)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26281)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17366)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14521)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34473)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13410)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40507)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26925)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14454)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13250)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13451)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12532)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13143)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11784)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12570)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17658)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12203)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12750)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18433)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14289)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12991)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11320)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12150)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13464)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10834)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11073)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10285)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28878)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25260)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26848)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25752)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18666)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23017)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34531)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32164)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant