Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?

27 Tháng Sáu 201807:36(Xem: 6055)
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?

Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?

Chúc Phú

bai phap

Ngay như các nhà nghiên cứu Phật học danh tiếng với những tác phẩm có ảnh hưởng rộng rãi như Nārada Mahā Thera (1898-1983), Étienne Lammote (1903-1983), Hans Wolfgang Schumann (1928-?)… cũng mặc nhiên thừa nhận giáo lý Tứ Thánh Đế là bài pháp đầu tiênkhi Đức Phật chuyển pháp luân.Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya. Một câu hỏi tưởng như bình thường nhưng để lýgiải thỏa đáng là điều không đơn giản. Vì lẽ, trong cách nghĩ truyền thốngTứ Thánh Đế(Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.

Thế nhưng trong quá trình nghiên cứu, có một số học giả đã cho rằng, giáo lý Tứ Thánh Đế trongbài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân đã được bổ sung về sau. Trước hết là quan điểmcủa học giả Nhật Bản Hajime Nakamura (1912-1999) ở tác phẩm Đức Phật Gotama-một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất[1] (Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts - 1968). Và gần nhất là ý kiến của tác giả Johannes Bronkhorst trong tác phẩm Hai truyền thống thiền tập ở Ấn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India - 1986).

Nghiên cứu lại những vấn đề đã được các học giả tên tuổi đề cập là công việc không giản đơn. Với khả năng hữu hạn và tài liệu hạn chếchúng tôi sẽ tiếp cận và nỗ lực lý giải vấn đề này, bắt đầu bằng việc khảo lại cơ sở lý luận của hai tác giả vừa nêu.

1.  Cơ sở lý luận của hai tác giả Hajime Nakamura và Johannes Bronkhorst.

Về tác giả Hajime Nakamura

Hajime Nakamura là một nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông có nhiều công trìnhnghiên cứu Phật học có giá trị và một trong số chúng chính là tác phẩm Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Tác phẩm bao gồm hai tập với tên Anh ngữ là Gotama Buddha: A biography based on the most reliable textsTác phẩm được ấn hành lần đầu tiên vào năm 1968 với phiên bản tiếng Nhật.

Bản dịch tiếng Việt, phần tập I của tác phẩm này được cư sĩ Trần Phương Lan hoàn thành và ấn hành năm 2010. Trong lời giới thiệu ở bản dịch tiếng Việt, giáo sư Lê Mạnh Thát đánh giá rằng:Trong số các tác phẩm viết về cuộc đời Ngài (Đức Phật – người viết  chú) xuất bản trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới thì bộ Đức Phật Gotama gồm hai tập của giáo sư Hajime Nakamure, thuộc Đại học Tokyo của Nhật Bản, theo chúng tôi, là tác phẩm tốt nhất xuất hiện cho tới bây giờ[2].

Và cũng theo tác giả Lê Mạnh Thát, tác phẩm này cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Một trong những hạn chế, theo phát hiện của chúng tôi, đó là quan điểm về bài thuyết giảng đầu tiên.

 Cụ thể, trong những quan điểm liên quan đến bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phậttác giảHajime Nakamura chỉ căn cứ vào nội dung bản kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanā Sutta) và từ đó cho rằng, giáo lý Tứ Diệu Đế đã được thêm vào về sau. Để khách quan hơn, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn này cùng với sự nhấn mạnh ở định dạng theo nguyên tác tiếng Việt:

Kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta) hình như là bản kinh cổ nhất trong các bản này và được tin tưởng là đã truyền đạt một phần của pháp thoại đầu tiên. Tuy thế, bản Hán dịch tương đương có tên là kinh La ma, số 204, của Trung a hàm nói rằng tại thành Vānārasī Đức Phật thuyết giáo Trung Đạo và Bát Thánh Đạo cho năm vị Tỷ kheo:

-      Các ông phải biết rằng có hai cực đoan trong tu hành mà người cầu Đạo không nên theo. Một là con đường dục lạcthấp hèn và thô tụchành nghiệp của người phàm phu thiếu hiểu biết. Đường kia là khổ đau do tự hành hạ thân xác. Chúng không phải là con đường dành cho các bậc trí cầu pháp. Chúng không xứng hợp (với mục đích). Này năm vị Tỷ kheo (Bhiksu), nếu các ông từ bỏ hai cực đoan này và thực hành Trung Đạo, các ông sẽ đạt minh trítri kiếnhoàn thành định vàgiải thoátChứng đắc tri kiếnGiác ngộNiết bàn (Nirvana) là Bát Thánh Đạo. Có tám chi phần, từchánh kiến đến chánh định.

Vì đoạn này không xuất hiện trong kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta), nó có thể được xem là một sự bổ sung ở thời kỳ sau. Khi kinh ấy được biên soạnTrung Đạo và Bát Thánh Đạo chưa được hệ thống hóa, hay ít nhất là chưa được xem là quan trọng. Tuy thế, vào thời kỳ nguyên bản Sanskrit của kinh La ma được biên soạn, hai yếu tố này đã được ghép vào pháp thoại ở Vườn Nai, mặc dù Tứ Thánh Đế (Bốn chân lý cao thượng) vẫn chưa được vị biên soạn biết đến! Sự bổ sungTứ Thánh Đế vào pháp thoại này xuất hiện rất lâu về sau. Cũng tương tự như vậy, không một vần thi kệ cổ (gāthā) nào nối liền Tứ Thánh ĐếBát Thánh Đạo, hay Trung Đạo với Pháp thoại này[3].

Trong phần nội dung bàn về Bài pháp thoại đầu tiên (The First Discourse)[4], tư liệu chủ yếu mà tác giả Hajime Nakamura sử dụng bao gồm cổ tích Nidānakathākinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta), kinh Tập (Sutta Nipāta), kinh Trung A-hàm, luật Tứ phần và kinh Tăng-nhất A-hàm.

Riêng về quan điểm cho rằng Kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanasutta) hình như là bản kinh cổ nhất trong các bản này và được tin tưởng là đã truyền đạt một phần của pháp thoại đầu tiên[5]. (TheAriyapariyesana-sutta seems to be the oldest of these texts, and it is belived to transmit part of the first discourse)[6]. Theo chúng tôi, nếu xét theo trật tự thời gian Đức Phật hoằng hóa, thì đây chưa hẳn là bản kinh được thuyết giảng sớm nhất và cổ nhất.

Vì lẽ, căn cứ vào một chi tiết được ghi nhận ở ngay những dòng đầu của bản kinh Thánh Cầu(Ariyapariyesanā Sutta), đã phần nào cho thấy điều đó.

 Đó là lời Đức Phật:

Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbārāma (Đông viên), ngôi lầu của Migāramatu (Lộc Mẫu giảng đường) để nghỉ trưa[7].

Theo chú giải kinh Pháp Cú (Dhammapada Aṭṭhakatha - DhA.i.413), tinh xá Pubbārāma do bà Tỳ-xá-khư (Visākha) xây dựngCần phải thấy, khi Đức Phật thành đạo và đi hoằng hóa, bà Tỳ-xá-khư gặp Đức Phật vào khoảng bảy tuổi (sattavassikakāle). Theo đó, ít nhất phải mười mấy năm sau khi đã ổn định gia thấtchuyển hóa nhà chồng, bà Tỳ-xá-khư (Visākha) mới đủ năng lực và điều kiệnxây dựng tinh xá này cúng dường Đức Phật và chúng Tăng[8]. Như vậy, xét về niên độ lịch sửbài kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanā Sutta), được thuyết giảng gần tinh xá Pubbārāma thì chưa phải là một trong những bài thuyết pháp đầu tiên.

 Mặc dù các nguồn tài liệu không mang tính bổ trợ, liên quan; chỉ dựa trên kết quả phán đoán khiso sánh kinh Thánh Cầu bản Hán và bản Pāli, nhưng giáo sư Hajime Nakamura đã cho rằng: Sự bổ sung Tứ Thánh Đế vào pháp thoại này xuất hiện rất lâu về sau. (The addition of the Four Noble Truths to the discourse came considerably later)[9].

Tương tự tác giả Hajime Nakamura khi bàn về nội dung bài pháp đầu tiên, nhiều nhà nghiên cứuđã đề xuất những quan điểm đặc thù, và một trong số chúng là tác giả Johannes Bronkhorst.

Về tác giả Johannes Bronkhorst.

Johannes Bronkhorst từng là giáo sư tại Đại học Lausanne ở Thụy Sỹ. Do có khả năng về cổ ngữSanskrit và Pāli nên ông có nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo sơ kỳ trong liên hệ với cáctôn giáo cùng thời. Tác phẩm Hai truyền thống thiền tập ở Ấn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India) là trong những công trình của ông.

Trong tác phẩm này, Johannes Bronkhorst đã cho rằng, Tứ Diệu Đế là một giáo lý dường như chưaxuất hiện trong bài giảng đầu tiên. Nguyên văn như sau:

        Điều này dường như chỉ ra rằng ban đầu Tứ Diệu Đế không nằm trong bài giảng đầu tiên tạiVườn Nai, do đó nó không phải là yếu tố cốt lõi của đạo Phật như quan niệm ngày nay. Ta có thểphỏng đoán rằng một công thức súc tích về Tứ Diệu Đế như vầy chưa tồn tại, và cũng không nhất thiết là nó đi lệch hướng với nội dung nguyên thủy ban đầu. Nếu Tứ Diệu Đế chưa có mặt khi bản Kinh Chuyển Pháp Luân được kết tập lần đầu, thì ta có thể tin chắc là tại thời điểm đó Tứ Diệu Đếkhông được coi là yếu tố cấu thành tuệ giác xuất hiện ngay trước thời điểm giác ngộ, và đưa đếngiác ngộ. (Bản dịch của Kan)[10].

Trong  tác phẩm Hai truyền thống thiền tập ở Ấn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India), tác giả đã có những so sánh giữa thiền tập Phật giáo và các truyền thống thiền tập khác như Ấn giáo (Hindu) và Kỳ-na giáo (Jain) lúc sơ kỳ. Tuy nhiên, dường như quá chú trọng đến Tứ Thiền (Four Dhyānas) mà tác giả đã trình bày chưa thực sự khách quan về vai trò của Tứ Diệu Đế[11]. Ở đây, vấn đề chúng tôi thật sự quan tâm là, tác giả Johannes Bronkhorst cũng cho rằnggiáo lý Tứ Diệu Đế dường như không có mặt trong bài pháp đầu tiên.

Từ quan điểm của giáo sư Hajime Nakamura đến hoài nghi của tác giả Johannes Bronkhorst, đã làm động lực giúp chúng tôi điểm lại những thư tịch liên quan đến bài pháp đầu tiên, cũng như nội dung Tứ Thánh Đế trong bài pháp đó.

2.    Các nguồn thư tịch khả tín liên quan đến bài pháp đầu tiên.


Thư tịch liên quan đến bài pháp thoại đầu tiên cũng như giáo lý Tứ Thánh Đế trong bài thuyết giảng đó bao gồm nhiều thể loại như Kinh, Luật, Luận, Sử và có mặt trong cả kinh điển từ Hán tạngcho đến Nikāya.

Để tiện theo dõi, những tài liệu Hán tạng, chúng tôi đánh ký hiệu là C và những tài liệu thuộc hệ Pāli, chúng tôi đánh ký tiệu là P và sắp sếp theo niên đại.

2.1.        Tư liệu Hán tạng.

C.1. Kinh Phật thuyết Chuyển pháp luân (佛說轉法輪經)[12], do ngài An Thế Cao (安世高) dịch vào thời Hậu Hán ở thế kỷ II.

C.2. Kinh Trung bổn khởi (中本起經)[13], quyển Thượng, do Sa-môn Đàm Quả (曇果) và Sa-mônKhang Mạnh Tường (康孟詳) dịch vào năm 207[14].

C.3Kinh Tăng nhất A-hàm (增壹阿含經) tập 14, kinh số 5[15]. Kinh này do Sa-môn Cù-đàm-tăng-già-đề-bà (瞿曇僧伽提婆) dịch vào niên hiệu Long An nguyên niên (隆安元年:397)[16].

C.4. Kinh Đại trang nghiêm luận (大莊嚴論經), quyển thứ mười do ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什: 334-413) dịch.

C.5. Kinh Chuyển pháp luân (轉法輪經)[17], tức kinh số 379, thuộc tập 15 của bộ kinh Tạp A-hàm(雜阿含經), do ngài Cầu-na-bạt-dà-la (求那跋陀羅) dịch ở thế kỷ thứ V.

C.6. Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả (過去現在因果經), quyển ba, do ngài Cầu-na-bạt-dà-la (求那跋陀羅) dịch ở thế kỷ thứ V.

C.7. Kinh Hiền Ngu (賢愚經), quyển thứ mười, phẩm Tu-đạt khởi tinh xá (須達起精舍品)[18] do Sa-môn Tuệ Giác (慧覺) và cộng sự dịch vào năm thứ sáu (446) niên hiệu Thái Bình Chân Quân (太平真君六年)[19]

C.8. Kinh Phật thuyết tam chuyển pháp luân (佛說三轉法輪經)[20] do ngài Nghĩa Tịnh (義淨:635-713) dịch vào năm thứ tư (710) niên hiệu Cảnh Long (景龍四年)[21].

C.9. Luật Tứ phần (四分律)[22], quyển 32, phần Thọ giới kiền độ, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc-phật-niệm (佛陀耶舍共竺佛念) dịch vào năm thứ mười (409) niên hiệu Hoằng Thủy (弘始十年)[23].

C.10.  Luật Ngũ phần (五分律), quyển 15, phần Thọ giới pháp, do ngài Phật-đà-thập và Trúc-đạo-sanh (佛陀什共竺道生)[24] dịch vào năm thứ hai (424) niên hiệu Cảnh Bình (景平). Bản luật này vốn do ngài Pháp Hiển thọ học từ bộ phái Di-sa-tắc[25].

C.11. Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự (根本說一切有部毘奈耶雜事)[26], quyển 19, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào năm thứ tư (710) niên hiệu Cảnh Long (景龍)[27].

C.12. Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da phá tăng sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事) quyển thứ 6, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào năm thứ hai (711), niên hiệu Cảnh Vân (景雲)[28].

C.13. Luận Phân biệt công đức (分別功德論)[29],  quyển thứ hai, không rõ người dịch, niên đại Hậu Hán (後漢:23-220), là bản chú giải bốn phẩm đầu kinh Tăng-nhất-A-hàm (增壹阿含經)[30].

C.14. Luận Đại-trí-độ (大智度論)[31], quyển thứ hai và quyển thứ 86, do ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) dịch vào năm thứ ba (401) niên hiệu Hoằng Thủy (弘始)[32].

C.15. Luận Du-già-sư-địa (瑜伽師地論)[33], quyển 76, do ngài Huyền Tráng (玄奘) dịch vào năm thứ 22 (648) niên hiệu Trinh Quán (貞觀)[34].

C.16. Luận A-tỳ-đạt-ma-tập-dị-môn-túc (阿毘達磨法蘊足論)[35], quyển thứ sáu, do ngài Huyền Tráng dịch vào năm thứ tư (659) niên hiệu Hiển Khánh (顯慶)[36].

2.2.        Tư liệu Nikāya.

P.1. Kinh Như Lai thuyết (S.v,420), thuộc Tương Ưng Bộ[37].

P.2. Kinh Phân biệt về sự thật (M.141), thuộc Trung Bộ[38].

P.3Đại Phẩm (Mahāvagga), chương Trọng yếu[39].

P.4 Văn bản Nidānakathā[40].

2.3.        Tư liệu lịch sử

-      Bi văn Bhabru, hay còn gọi là Bi văn Bairat của vua Asoka[41].

-      Phiến đoạn kinh Saṅgīti bằng ngôn ngữ Kharoṣṭhī[42].

3.    Đánh giá bước đầu về các nguồn thư tịch.

Như vậy, có 16 tư liệu Hán tạng, 4 tư liệu ở tạng Nikāya và 2 tư liệu thuộc bằng chứng lịch sử cóghi nhận về giáo lý Tứ Thánh Đế trong bài thuyết pháp đầu tiên. Nếu cộng thêm cả hai nguồn thư tịch Sanskrit và Tibetan theo khảo cứu của tác giả Norman Joseph Smith[43] thì bằng chứng vềgiáo lý Tứ Diệu Đế trong bài thuyết giảng đầu tiên rất phong phú.

Xét về niên đại, kinh điển Pāli được viết xuống lần đầu tiên do một nhóm các vị tỳ kheo tại Aluvihāra, gần Mātale, vào năm 454 sau khi Đức Phật nhập Niết bàn (35-32 B.C)[44]. Một phiến đoạn kinh Saṅgīti bằng ngôn ngữ Kharoṣṭhī viết trên vỏ cây bạch dương (birch bark) có niên đại vào thế kỷ thứ I, được bảo tàng Anh quốc phát hiện năm 1994 và được Richard Salomon công bốnăm 1999 là bằng chứng bổ sung cho thấy sự có mặt của kinh điển bằng chữ viết[45]. Đáng chú ý là, bản kinh Saṅgīti này theo đối khảo của Richard Salomon thì rất giống với bản kinh Chúng tập(眾集), thuộc bộ Trường A-hàm, ở Hán tạng[46]. Đây là một tín hiệu đáng mừng về tầm quan trọng của những nguồn thư tịch Hán tạng.

Ở đây, với những tư liệu Hán tạng có niên đại khá sớm như tư liệu C.1; C.2C.3 và chú giải bảnC.3 là bản C.13, cùng với những tư liệu thuộc tạng Nikāya như bản P.1P.3… là những bằng chứng quan trọng về sự có mặt của giáo lý Tứ Thánh Đế trong bài pháp đầu tiênĐặc biệt, với những vần kệ cô đọng được tôn giả A-nan tuyên thuyết theo bản C.14 là bằng chứng chắc thật, cụ thể:

Phật tại Ba-la-nại,
Vì năm vị Tỳ-kheo,
Khai mở nguồn cam lồ,
Giảng pháp bốn chân đế:
Khổ, tập, diệt, đạo đế.
A-nhã-kiều-trần-như,
Người đầu tiên thấy Đạo,
Tám vạn chúng Trời, người,
Chứng quả Tu-đà-hoàn[47].

Đây là những vần kệ của luận Đại-trí-độ liên quan đến bài thuyết giảng đầu tiên có niên đại xuất hiện vào thế kỷ thứ II và được dịch sang Hán văn vào năm 401[48]. Điều này đã góp phần bác bỏquan điểm của Hajime Nakamura, khi ông ta cho rằng: không một vần thi kệ cổ (gāthā) nào nối liềnTứ Thánh ĐếBát Thánh Đạo, hay Trung Đạo với pháp thoại này (None of the ancient verses (gāthā) link the Four Noble Truths, the Eightfod Path, or the Middle Way to the discourse)[49].

Về phương diện lịch sửcăn cứ vào dòng chữ Vinayasamukase[50] do vua Asoka khắc trên bia đá Bairat, giáo sư sử học Ấn Độ Radhakumud Mookerji (1884-1964) đã cho rằng: là một phương cáchnhấn mạnh nhằm chỉ cho giáo lý Tứ Thánh Đế được Đức Phật giảng dạy trong buổi thuyết phápđầu tiên tại Sarnath (an expression applied to the Four Noble Truths expounded by the Buddha in his First Sermon at Sarnath)[51].

Như chúng tôi đã chỉ ra, về phương diện tư liệu, lịch sử, đã có nhiều bằng chứng góp phần chứngminh rằng, giáo lý Tứ Thánh Đế là một nội dung quan trọng được giảng dạy trong buổi giảng đầu tiên của Đức Phật. Và nên cạnh những bằng chứng xác đáng đó, việc Đức Phật lựa chọn địa điểm cho buổi thuyết giảng đầu tiên, cũng là một lý do cần quan tâm, làm rõ.

4.  Vì sao Đức Phật chọn Vườn Nai (鹿野苑) làm nơi chuyển pháp luân?

Trước hết, về danh từ chuyển pháp luân (轉法輪: dhammacakkaṃ pavatteti).

Chuyển pháp luân với nghĩa phổ dụng là chuyển vận bánh xe chánh phápTuy nhiên, trong Đại kinh sư tử hống (Mahāsīhanāda Sutta), ở tạng Nikāya và kinh Thánh đạo (聖道經)[52] thuộc bộTrung A-hàm ở Hán tạng đã sử dụng danh từ chuyển Phạm-luân (轉梵輪: brahmacakkaṃ pavatteti). Trong kinh Tăng Chi (A.v,32)[53] và kinh Tạp A-hàm tương đương trong Hán tạng[54] cũng sử dụngdanh từ này. Về phương diện ngữ nghĩa, dường như những bản kinh dùng từ chuyển Phạm-luân là những bản kinh xuất hiện ở thời kỳ đầu, vì trong giao thoa ngôn ngữ vẫn còn chút dấu ấn của văn hóa Vệ-đà[55]. Tuy vậy, trong những bản luận giải, cả Hán tạng và Nikāya đã có những giải thíchtương đồng.

Theo luận Du-già-sư-địa, quyển thứ 49, ghi:

Sau khi chứng đạo, do lòng ai mẫn bao la nên vì chúng sanh mà khai thị, gọi đó là chuyển Phạm-luân (既自證已由哀愍心廣為有情等開示.故名轉梵輪)[56].

Tương tự, theo Chú giải bộ phân tích (Vibhanga Atthakathā):

Brahmacakkaṃ pavatteti “Chuyển phạm Luân”: ở đây brahma “vô địch” chính là, chính yếu, cao nhất, tuỵệt vời bậc nhất. Nhưng từ cakka này lại mang ý nghĩa như sau:

thành quả và đặc tướng,
một phần dáng đi và thế đứng.
là của thí, kho báu,
Pháp và bánh xe sắc bén. v.v...

Được coi như Chuyển Pháp Luân và diễn giải hai cách như vậy[57].

Như vậy, về mặt văn bản, có những lúc kinh văn dùng từ chuyển Phạm-luân hay chuyển Pháp luân, nhưng đều mang ý nghĩa là chuyển vận bánh xe chánh pháp.

Ở đây, dựa trên những lý do nào Đức Phật lựa chọn Vườn Nai làm nơi đầu tiên chuyển pháp luân?

Cần phải thấy, Đức Phật thành đạo tại thành Già-da (伽耶: Gayā), còn nơi chuyển pháp luân thuộc thành Ba-la-nại (波羅㮏: Vārānasī). Xét về vị trí địa lý, hai địa điểm này xa nhau khoảng 300km, ít nhất phải trải qua hơn mười ngày mới có thể vượt qua đoạn đường đó[58]. Ở đây, vấn để được đặt ra là, vì lý do gì mà Đức Phật phải đi một khoảng cách khá xa như vậy để chuyển pháp luân?

Điều này, tác giả Hajime Nakamura đã hiện đại hóa ý nghĩa qua lý giải sau:

Đối với Đức Phật đi đến Vườn Nai để giảng giải tư tưởng của mình cũng giống như một học giảhiện đại trình bày một lý thuyết mới tại một hội nghi quốc giaVườn Nai được coi là nơi “hội tụ các ẩn sĩ”; nói cách khác, đó là nơi gặp gỡ của các đạo sĩ tu hành.[59]

Có lẽ quan điểm của tác giả Hijime Nakamura có nguồn cội sâu xa từ ý kinh Phổ Diệu. Kinh ghi:

Khi ấy thần cây Bồ-đề tên là Pháp Minh, cũng gọi là Pháp LạcPháp ÝPháp Trì đến bên Đức Phậtrồi bạch Phật rằng:

-Nay Đức Thế Tôn sẽ chuyển pháp luân ở nước nào?

 Khi ấy Phật dạy:

-Tại Vườn Nai ở xứ tiên nhân, trong nước Ba-la-nại.

Thọ thần bạch Phật:

-Ở xứ tiên nhân trong vườn Lộc uyển, nước Ba-la-nại thì dân chúng quá thưa thớt. Ngài không nênthuyết pháp ở đó.

Phật dạy thọ thần:

-Chớ nên nói vậy. Vì sao? Vì trong nhiều đời trước Ta đã xây dựng Pháp điện (法祠) tại nơi đó. Trải qua sáu vạn ức năm, Ta đã cúng dường sáu vạn ức chư Phật Thế Tôn và vô số tiên nhân đến đótu học.

 Ở nước Ba-la-nại chư Thiênlong thần đều tận lực khen ngợi và khể thủquy y Đại pháp siêu thế(無極大法). Ngàn ức chư Phật đều nhớ rõ việc này. Tại đây, trong khu rừng ẩn sĩ (神仙樹木), Ta sẽchuyển bánh xe pháp, giữa không gian vắng lặngtịch nhiên, không có những loại người tối tăm,vô trí. Với những nghĩa đó, Ta sẽ chuyển pháp luân, trong khu rừng ẩn sĩ[60].

Tương tự, việc lựa chọn nơi hội tụ của các ẩn sĩ để trình bày sự chứng ngộ của Đức Phật như tiếng rống của loài sư tử (Sīhanāda: 師子吼) nhiếp dẫn các loài thú, như sự ghi nhận của kinh Tập(Sn. 131):

Ngài, chúng sanh tối thượng,
Ngài loài Người tối thắng,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp Luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài thú[61]

Như vậy, việc lựa chọn địa điểm để chuyển pháp luân là một việc làm thấm đẫm tuệ giác của Đức Phật. Từ logic nội tại đó cho thấy, trong buổi thuyết pháp đầu tiên này, các quan điểm cơ bản nhất, quan trọng nhất mà Ngài đã chứng ngộ, sẽ được trình bày. Và do vậy, không vì lý do gì mà giáo lýTứ Thánh Đế không được trình bày trong thời pháp quan trọng này.

5.   Nhận định.

Từ những bằng chứng quan trọng và khả tín từ Hán tạng đến Nikāya, trải đều trên các nguồn thư tịch như Kinh, Luật, Luận, Sử; từ lý do cân nhắc và lựa chọn địa điểm để chuyển pháp luân, đã góp những bằng chứng quan trọng để khẳng định rằng, giáo lý Tứ Thánh Đế đã có mặt trong bài thuyết giảng đầu tiên.

Tư liệu làm cơ sở để đưa ra nhận định giáo lý Tứ Thánh Đế không có mặt trong bài pháp đầu tiêncủa giáo sư Hajime Nakamura căn cứ vào bản kinh Thánh Cầu. Xét về nội dung, đây chỉ là bài kinhmà Đức Phật đã kể lại một phần của con đường giác ngộ, và trọng tâm chủ yếu đề cập đến hai loại tầm cầu, Thánh cầu và phi Thánh cầu (ariyā ca pariyesanā, anariyā ca pariyesanā). Xét về lịch sử,bài kinh này được thuyết giảng rất lâu sau khi Ngài chứng ngộ. Bối cảnh hồi ức về con đường khổ tu, chứng ngộ và thuyết giảng của Đức Phật cũng có thể tìm thấy trong bài kinh Bồ-đề vương tử(M.85), cũng thuộc Trung Bộ[62].

Căn cứ vào lịch sử truyền dịch kinh điển, người có khả năng nắm giữ kinh điển và trùng tụng lại được gọi là Bhāṇaka. Việc cất giữ kinh điển bằng trí nhớ không phải là điều kiện tối ưu để giữ gìntính toàn vẹn về giáo phápCâu chuyện nhầm lẫn về hình ảnh con cò trắng (水白鶴: baka) và phápsanh diệt (生滅法: udayavaya[63]), trong câu kinh Pháp Cú (Dhp.113) do sự nhầm lẫn giữa hai hợp âm (baka-vaya), được ghi lại trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự[64] là bằng chứng cho thấy, không đối chiếu kinh điển thì dễ rời xa lời dạy của Đức Phật.

Chúng tôi xin dẫn lời của ngài Long-Thọ (龍樹) trong tác phẩm luận Đại-trí độ (大智度論) như một sự tái khẳng định và xem đó là lời kết thúc chuyên khảo này:

Như trong kinh Chuyển pháp luân nói: Sau khi nhận hiểu khổ đế, gọi là bậc kiến đạokiến đạo rồi thì phân biệt hiểu biếtKhổ đế là pháp cần thấy. Tập đế là pháp nên đoạn. Diệt đế là pháp phải chứng. Đạo đế là pháp nên tu[65].



[1] Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB. Phương Đông, 2010

[2] Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB. Phương Đông, 2010, tr.15.

[3] Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB. Phương Đông, 2010, tr. 355-356. Có thể tham chiếu bản Anh ngữ: Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p.247-248.

[4] Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p. 241

[5] Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB. Phương Đông, 2010, tr.355.

[6] Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p. 247.

[7] Kinh Trung Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo , 2012, tr. 211

[8] Tích truyện Pháp cú, tập 1, Viên Chiếu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 374-398.

[9] Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p.248.

[10] Phần này nằm trong bài viết: Duyên Hợp – tinh túy của đạo Phật (4): chương 3. Xem tại:https://kienngot.wordpress.com/2011/10/10/duyen-h%E1%BB%A3p-tinh-tuy-c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A1o-ph%E1%BA%ADt-4-ch%C6%B0%C6%A1ng-3/#more-706. Nguyên tác: This seems to indicate that initially those Four Noble Truths were not part of the sermon in Benares, and consequently not as central to Buddhism as they came to be. We may surmise that the concise formulation of the teaching of the Buddha in shape of the Four Noble Truths had not yet come into being, not necessarily that the content of this teaching deviated from what they were meant to express. If then the Four Noble Truths did not yet exist when the primitive version of what came to be known as Dharmacakrapravartana Sutra was composed, we can be sure that in that time they were not considered as constituting the insight which immediately preceded and brought about liberation. Xem tại:

[11] Johannes Bronkhorst. The Two Traditions of Meditation in Ancient India. Delhi: Motilal Banarsidass. 2000.p. 79. Cf: Recognition of the Four Noble Truths culminates in knowledge of the path leading to the cessation of suffering. This is useful knowledge for someone who is about to enter upon this path, but it is long overdue for someone at the end of the road. Knowledge of the path must and does precede a person commencing upon it. This also applies to the Buddha himself. In the passage which we studied above (§ 1.5, MN I. 246-47) we were told that the Bodhisattva remembered how once in his youth, he reached the First Dhyāna and wondered if this could be the road towards enlightenment. The text then continues: “following this memory I had this knowledge: ‘This is really the road towards enlightenment’.” In other words, also the Bodhisattva knew the path he was to traverse, and knowledge of the Four Noble Truths could not thereafter bring him anything new.

[12]大正藏第 02 冊 No. 0109 佛說轉法輪經

[13]大正藏第 04 冊 No. 0196 中本起經, 卷上

[14] Nguyên văn: 建安十二年. Xem tại: 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第一

[15]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第十四, 五

[16]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第三

[17]大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第十五

[18]大正藏第 04 冊 No. 0202 賢愚經,卷第十

[19]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第六

[20]大正藏第 02 冊 No. 0110 佛說三轉法輪經

[21] 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第九

[22]大正藏第 22 冊 No. 1428 四分律

[23]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四

[24]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第十五

[25]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第十五

[26]大正藏第 24 冊 No. 1451 根本說一切有部毘奈耶雜事, 卷第十九

[27]大正藏第 55 冊 No. 2152 續古今譯經圖紀

[28]大正藏第 55 冊 No. 2157 貞元新定釋教目錄, 卷第二十三

[29]大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論

[30]大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第四. Nguyên văn: 分別功德經五卷(一名增一阿含經疏迦葉阿難造)

[31]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二

[32]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四

[33]大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第七十六

[34]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第八

[35]大正藏第 26 冊 No. 1537 阿毘達磨法蘊足論, 卷第六

[36]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第八

[37] Kinh Tương Ưng Bộtập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 783-785.

[38] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.589-593

[39] Đại Phẩm, tập 1, Tỳ khưu Ondacanda, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.14-21

[40] The Pāli Text Society. The Jātaka together with its commentary, being tales of the anterior births Gotama Buddha. Vol 1. Edited by V. Faus Boll. London: Messrs. Luzac and Company, Ltd. 1962.  p.82

[41] P.118.

[42] Richard Salomon.  Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara. Seattle:  University of Washington Press. 1999.p.89.

[43]Norman Joseph Smith. The 17 versions of the Buddha’ First Discourse. (JIABS). University of Queensland,. 2001.

[44]Lamotte, Étienne.  History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988 p. 558

[45] Richard Salomon.  Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara. Seattle:  University of Washington Press. 1999

[46] Ibid.p.174-175.

[47]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二. Nguyên văn: 佛在波羅柰,佛為五比丘,初開甘露門,說四真諦法:苦集滅道諦.阿若憍陳如,最初得見道,八萬諸天眾,皆亦入道迹.

[48]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四

[49] Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p. 248.

[50] Cunningham, Alexander. Corpus Inscriptionum Indicarum: Inscriptions of Asoka. Vol. I. Calcutta: Office of the Superintendent of Government Printing. 1877. p. 97.

[51]Radhakumud Mookerji. Asoka. London: Macmillan and Co, 1928. p.118.

[52]大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 卷第四十九, 聖道經

[53] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 553-555.

[54]大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第二十六, 六八四

[55] Arthur Berriedale Keith. The religion and philosophy of the Veda and Upanishads. Part II. London: Humphrey Milford. 1925.p.550

[56]大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第四十九

[57] Āriya Dhammapāla, Chú giải bộ Phân tích (Vibhanga Atthakathā), tập 1-2, Tỳ-kheo Siêu Minh, dịch, NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2007.tr.796.

[58] Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB. Phương Đông, 2010, tr.345.

[59] Ibid.

[60]大正藏第 03 冊 No. 0186 普曜經, 卷第七. Nguyên văn: 時佛樹神名曰法明, 又名法樂, 又名法意, 又名法持, 往到佛所前白佛言: 今佛世尊, 當於何國而轉法輪? 時佛告曰: 在波羅奈仙人之處鹿苑之中. 樹神白佛: 波羅奈國仙人之處鹿苑之中, 人民尠少不可說法.佛告樹神: 勿說此言.所以者何? 我宿命時在中建立法祠,六萬億載在中供養六萬億諸佛世尊,及若干種仙人,學遊居其中. 波羅奈國諸天龍神所共嗟歎, 無極大法稽首歸命, 千億諸佛悉念本末, 在此神仙樹木之間,應轉法輪.寂然惔怕,不覩無智暗冥之黨, 以此之故, 在此神仙樹木之間而轉法輪.

[61] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 466.

[62] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 119-124

[63] Barua, Beni Madhab, M.A. Prakit Dhammapdada – Based upon M. Senart’s Kharoṣṭhī manuscript with text, translation & notes. University of Calcutta. 1921.p. 61.

[64] Tôn giả Anan thấy một vị Tỳ-kheo cứ mãi đọc tụngNếu người sống trăm năm, không thấy con cò trắng./ Chẳng bằng sống một ngày, được thấy con cò trắng (若人壽百歲,不見水白鶴./不如一日生,得見水白鶴). Nghe xong, tôn giả quá đỗi ưu tư và đã yêu cầu sửa lại: Nếu người sống trăm năm./ Không rõ pháp sanh diệt./ Chẳng bằng sống một ngày, được rõ pháp sanh diệt (若人壽百歲,不了於生滅./不如一日生,得了於生滅). Xem tại: 大正藏第 24 冊 No. 1451 根本說一切有部毘奈耶雜事, 卷第四十

[65]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第八十六.  Nguyên văn: 如 “轉法輪經” 中說:苦諦知已應見;知已分別知,是法應見,是苦諦;是法應斷,是集諦;是法應證,是滅諦;是法應修,是道諦

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13050)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26985)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32831)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31622)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32546)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13001)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12133)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17473)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18698)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12546)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11747)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13098)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12179)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12471)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11626)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11962)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10591)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10923)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28285)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11156)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11350)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13569)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11031)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11420)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10889)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11174)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26307)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12367)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14871)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11039)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20312)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12347)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11455)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10750)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23886)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11830)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12279)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12801)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11033)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38687)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10522)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12165)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17684)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24998)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10532)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10731)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12031)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11296)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11568)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14717)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21421)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9878)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11251)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27343)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11170)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11820)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11000)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14287)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11464)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12622)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant