Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Năm Tầng Pháp Như Lai

19 Tháng Bảy 201804:56(Xem: 5970)
Năm Tầng Pháp Như Lai

Năm Tầng Pháp Như Lai 

Mãn Tự

Năm Tầng Pháp Như Lai


Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La MậtĐức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ ĐềNhư Lai có nhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế TônNhư Lai có nhục nhãnNhư Lai có Thiên Nhãn, có Tuệ Nhãn, có Pháp Nhãn, có Viên Mãn Giác Ngộ nhãn không? (đây không dùng từ Phật vì từ Phật bị những phàm phu vô trí, những người mê tín dị đoan lợi dụng quá nhiều, vì vậy bài viết này sẽ dùng mười hai danh tự lẫn lộn nói lên trí tuệ Đức Thế Tôn).

Sau khi ngài Tu Bồ Đề minh định Đức Như Lai cóNgũ nhãnTuy nhiên để các vị tu sĩ không nghi ngờ vì quá kính trọng mà ngài Tu Bồ Đề tùy thuậnmù quáng tin nhận những gì Đức Thế Tôn nói ra. Từ trên thượng tầng Đại Viên Mãn Giác ngộ nhãn,xuyên qua bốn tầng lớp đó là Pháp nhãnTuệ nhãnThiên nhãn và Nhục nhãn Đức Như Lai đặt câu hỏi ngài Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề như cátsông Hằng Như Lai gọi là gì? Bạch Thế Tôn Như Lai gọi là cát - Tu Bồ Đề trả lời. Câu trả lời đó xác định Vô Tránh Tam Muội của ngài Tu Bồ Đề không lay động dù được nghe  giáo Pháp thậm thâm vi diệu mà chưa bao giờ ngài được nghe. Kinh Kim Cang đối với Nhị thừa Thanh VănDuyên giác thì đã vượt qua cấp độ tiếp nhận của các ngài nên Đức Như Lai cẩn trọng như vậy.

Với cát sông Hằng Đức Thế Tôn vẫn gọi là cát có nghĩa là đồng nhục nhãn của sự nhận thứcchung với loài hữu tình, như vậy còn năm căn là tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì sao Đức Thế Tôn không đưa lên mà chỉ nói Nhãn căn mà thôi. Có thể trình độ thính chúng vào lúc đó có nói ra cũng khôngtiếp nhận được. Tuy nhiên phải nhận định rằng Đức Như Lai một nhãn căn như vậy thì năm căn khác cũng là như vậy. Nếu không thì không thể gọi là Thiên Nhân Sư là Vô Thượng Bồ Đề là ĐạiViên Mãn giác…

Kinh luận hiện thời có rất là nhiều mà sự sai biệt mâu thuẫn cũng không là ít, không phải sự tranh luận đó bây giờ mới có mà theo Kinh điển vào thời Thế Tôn hiện tiền cũng đã xảy ra rồi. Như vậy sự sai biệt, sự mâu thuẫn trong Kinh dẫn ra sự tranh luận dai dẳng chưa có hồi kết cuộc là đúng hay sai? Hoàn toàn đúng hết, tuy nhiên sự đúng đó chỉ nằm trong từng tầng giáo Pháp Như Lai.

Phiền não của loài hữu tình là trùng trùng vô tận vì nó trộn lẫn, chất chồng lớp lớp tính theo tâm sởđối cảnh duyên. Còn nếu quay lại nhìn thẳng vào thân tâm thì có “tận”. Tận ở đâu? tận ở sáu cănvì vậy Kinh Lăng Nghiêm Đức Thế Tôn dạy rằng: “luân hồi phiền não cũng bởi sáu căn, mà giải thoát cũng sáu căn”. Ngoài sáu căn ra thì tuyệt nhiên không có gì là luân hồi phiền não cũng không có gì giải thoát.

Đức Thế Tôn Như Lai đắc Vô Thượng Bồ Đề nên sáu căn viên thông, một Nhãn căn có năm tầng thì năm căn khác cũng như vậy. Đức Thế Tôn tùy theo pháp hội tùy theo căn cơ thính chúng bằngChánh đẳng Chánh Giác Nhãn quán sát Ngài biết căn cơ thính chúng trong Pháp hội nên dùngnhục nhãn nói Pháp để điều phục dùng thiên nhãn nói Pháp để điều phục hay dùng Huệ nhãn,Pháp nhãncho đến Vô Thượng Bồ Đề nhãn để nói Pháp. Hay dùng Nhục nhĩ, Thiên nhĩ, Huệ nhĩ,Pháp nhĩcho đến vô thượng bồ đề nhĩ và bốn căn tỉ, thiệt, thân, ý cũng như vậy, đều có năm tầng.

Vì Đại Bi Tâm bình đẳng không phân biệt đẳng cấp tất cả loài hữu tình, từ thành phần thấp nhất tận cùng đáy xã hội cho đến giai cấp cao sang quyền quý đứng trên đỉnh nhân gian. Bất cứ thành phần nào giai cấp nào có duyên đến với Ngài, thì tùy theo căn cơ mà Thế Tôn nói Pháp giúp họđược giải thoát ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, hay dứt nghi ngờ, những gì họ từng học qua nhưng không nhận thức ý nghĩa một cách rõ ràng mù mờ trong lí luận. Luôn luôn như vậy bất kể ngày đêm sáng trưa chiều tối trong suốt 49 năm ngài thị hiệncho đến khi Ngài quán sát thấy rằng những giáo Pháp mà ngài chứng ngộ cùng trải nghiệm qua đã truyền lại hết cho nhân gian và cũng có những bậc đệ tử trí tuệ nhận lãnh Giáo Pháp để lưu truyền nên Ngài thị hiện Niết bàn.

Vì thế gian loài hữu tình mọi sự nhận biết phát sinh từ sáu căn làm cội gốc, nên Đức Như Lai cũng nương sáu căn mà nói Pháp. Tuy nhiên Thế Tôn là bậc Đại Giác Ngộ nên sự thấy biết mỗi căn có năm tầng, với những hữu tình sơ cơ học đạo thì mỗi tầng như vậy là nấc thang trời không dễ gì với tới. Thí dụ như thính chúng Pháp hội nghe Thế Tôn giảng Pháp trong giới hạn phạm vi nhục nhãn, nhục nhĩ hay tỉ… thì đã là một sự xa vời, chứ đừng nói chi tới huệ nhãnPháp nhãn, hay huệ nhĩ, Pháp nhĩ…

Với loài Ngườichư ThiênNhị ThừaBồ Tát, do sự mê mờ nhiều hay ít mà phân ra cấp độ như vậy.Tuy nhiên những cấp độ thì lấy biên độ nào, lấy giới hạn để phân chia ra. Đó là lấy Chân như làm tâm điểm, so sánh đối chiếu trình độ thâm nhập xa hay gần mà có sự sai biệt bốn cấp độ như trên.Đức Như Lai thị hiện chỉ cho chúng sanh con đường giải thoát nên Pháp ngài nói ra là tùy thuậntheo trình dộ căn cơ của thính chúng trong Pháp hội không lẫn lộn vì ngài có Tri căn Trí lựcKinh điển lưu truyền đến bây giờ chúng ta vẫn đinh ninh là từ Đức Như Lai nói ra, thật ra thì ngài không nói gì hết. Vậy Kinh từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa không phải từ Đức Thế Tôn thuyết hay sao? Nếu Đức Như Lai có thuyết Pháp thì còn năng thuyết, sở thuyết thì làm sao đúng với hai chữ Như Lai. Những Kinh điển mà chúng ta có là do Hậu Đắc Trí đối cảnh sở duyên tâm Đại Bi vận hành mà phát ra âm thanhÂm thanh đó không thật không hư vì xuất phát từ Chân Như nên là vô tận.

Vì từ Chân Như từ vi tận nên những vị tu học hay học Kinh thì nhận ra sự huyền diệu đó, vì cũng một quyển Kinh hay một câu Kinh mà càng tu học thì mỗi lúc càng thấy biết rộng ra bay bổng, ý nghĩa càng thâm diệu, càng sâu xa hơn lên.

Có một bản tiểu luận giải thích về năm thời kỳ Đức Thế Tôn thuyết Pháp từ ban đầu Thành Đạongài thuyết Kinh Hoa Nghiêm cho đến khi sắp Niết Bàn ngài thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn. Thật raluận giải năm thời kỳ thuyết Pháp của Đức Như Lai không được thuyết phục lắm vì có những phần khập khiễng và mâu thuẫn so sánh với lịch sử truyền thừa.

Đức Thế Tôn Như Lai mỗi quan năng có năm tầng trí tuệ như mắt gồm có: 1. Nhục nhãn; 2. Thiên nhãn; 3. Huệ nhãn; 4. Pháp nhãn; 5. Vô thượng bồ đề nhãn. Y theo Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa năm quan năng còn lại cũng đều có năm tầng trí tuệ như vậy. Không phải Pháp có năm tầng, mà năm tầng đó là trình độ, là căn cơ loài hữu tình còn Đức Như Lai thì tùy thuận vì trình độcăn cơ loài hữu tình thấy sai biệt là như vậy. Tuy nhiên với Đức Như Lai thì: năm tức một, một tức năm, vì vậy tất cả Kinh điển đều có năm tầng trong đó, dù vậy điều quan trọng là có nhận ra Ẩn và Hiện hay không?

Ẩn, Hiện như thế nào? Khi Đức Thế Tôn trong Pháp hội mà trình độ căn cơ thính chúng chỉ là phàm phu bình thườngnhận thức mọi việc xung quanh bằng năm quan năng thô phù bên ngoài, sống theo phong tục tập quán và sự hiểu biết chỉ là lớp trước truyền lại lớp sau, chưa hề biết đến quan năng thứ sáu tức Ý thức hay là phân biệt thứcPháp hội mà thính chúng như vậy Đức Như Lai tùy thuận nói Pháp Thập Thiện… thiết lập căn bản đời sống cho chúng sanh.

Đức Thế Tôn luôn luôn dạy rằng: “Như sư tử dù bắt thỏ cũng tận lực” Pháp Thập Thiện gồm cóthân ba, miệng bốn, như vậy thì Thiên nhãnHuệ nhãnPháp nhãnVô thượng Bồ Đề nhãn, ở đâu trong Pháp Thập Thiện Như một viên ngọc đẹp đẽ không tì vết dù có ở trong bụi đất thì cũng không mất đi tính chất của nó. Đức Thế Tôn tùy thuận căn cơ chúng sanh mà thuyết Pháp Thập Thiện,tuy nhiên Pháp Thập Thiện đó là từ bậc Chánh đẳng Chánh giác nói ra. Đối với thế gian thì ngườihọc hành có rất khó nói chuyện vói người bình dân, người giàu khó nói chuyện với người nghèo, vua chúa quan quyền khó nói chuyện với người dưới mà chỉ ra lệnh mà thôi.

Pháp Thập Thiện mà Thế tôn thuyết không nằm trong hệ thống giáo lý nào lưu truyền từ trước, không học từ vị đạo sư nào, không theo một trình tự tín ngưỡng thần quyền  nào, không cầu khẩnvan xin vào đấng thần linh nào, mà tất cả mười điều đều lấy tự thân mỗi người làm chính.

Vì viên mãn Hậu Đắc Trí chứng Vô Thượng Bồ Đề ở ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác bất động hiện thân trước Pháp hội nói Pháp Thập Thiện. Trong bốn trí thì Đại Viên Cảnh Trí chiếu diệu như ánh sáng mặt trời chiếu soi không bỏ xót một vật nào. Bình đẳng tánh trí không phân biệt là cao, là thấp, Diệu Quan Sát Tríquán sát căn cơ Pháp hội thính chúng. Bằng Thành Tác Sở Trí thuyết lên Pháp Thập Thiện tương ưng trình độ chúng sanh. Với chúng sanh năm căn vì nương vào cái thân xương thịt nên gọi là “nhục căn” còn Đức Như Lai là Pháp thân nên là “Thành Sở Tác Trí”. PhápThập Thiện gốc từ đâu? Pháp Thập Thiện gốc từ hai chi đầu là Danh Tướng của năm tự tánh, thêm vào một phần nhỏ Phân biệt, còn Chánh trí và Như Như trong Pháp Thập Thiện như một bóng mờ. Không phải là không có Chánh Trí Như Như nhưng trình độ chúng sanh trong Pháp hội mà thấy nghe bằng nhục nhãn, nhục nhĩ… thì không làm sao nhận ra được, dụ như ban ngày bị bụi mù, mây mưa che lấp không thấy mặt trời, dù không thấy mặt trời nhưng sự sáng cũng do mặt trời mà có. Vì vậy Pháp Đức Như Lai nói ra dù trong thành phần nào cũng có đủ năm tầng tuy nhiên sự sai biệt là ẩn và hiện nên năm tức một, một tức năm.

Trong thời gian đó Pháp hội thính chúng mắt thấy tai nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa giảng PhápThập Thiện thì cũng ngay thời gian đó vào một biên độ khác Chư Thiên cũng thấy Như Lai trênpháp tòa đang giảng Pháp sinh tử luân hồinhân quả, tức là Pháp mười hai nhân duyên từ vô minhđến lão tử. Cùng một thời gian nhưng hai biên độ khác nhau nên không thấy nhau vì nhục nhãn vàthiên nhãn không cùng cấp độ.

Cũng ngay thời gian đó ở một biên độ khác nữa thì chư vị Nhị Thừa Thanh Văn Duyên giác cũng đang thấy nghe Đức Thế Tôn trên Pháp tòa thân tướng ứng hợp với niềm tin của chư vị Thanh văn,Duyên giác, thuyết Tứ Thánh ĐếBát Chánh ĐạoThập Nhị Nhân DuyênVô NgãLục Ba La Mật… Bằng Huệ nhãn với chư vị Nhị thừa Đức Như Lai thuyết sự nhiễm tịnh các Pháp, sự sinh thành hoại diệt, sự khổ lạc các Pháp, và sự xuất ly Pháp khổ, và sau cùng là chứng Niết Bàn theo nguyện vọng ước muốn của chư vị nhị thừa.

Các vị Nhị Thừa đến với Thế Tôn toàn là người Bà-la-môn giáo, vì trước khi Thế Tôn thị hiện thì chưa có đạo giải thoát, vì để giải trừ sự chấp thủ sâu dày giáo lý Bà-la-môn, nên Thế Tôn phương tiện dùng hai trong ba tự tánh để thuyết Pháp, ba tự tánh đó là:

Một là Biên kế sở chấp tánh, hai là Y tha khởi tánh, ba là Viên thành thật tánh, Biên kế sở chấp là chư vị Bà-la-môn khi đến với Đức Thế Tôn thì giáo lí Vệ-đà vẫn còn nguyên trong tư tưởng của họ,vì vậy mới có mười câu hỏi siêu hình do tưởng thức đặt ra. Tuy có câu hỏi mà tuyệt nhiên không có câu trả lời, dù là từ ông tổ đầu tiên của trường phái Vệ-đà cho đến thời Đức Thế Tôn thị hiện, hơn nữa còn có vị dọa rằng sẽ bỏ đoàn thể Chư Tăng mà đi nếu Đức Thế Tôn không trả lời thỏa mãncâu hỏi của ông ta, hay đến nỗi chư vị đó còn yêu cầu rằng nếu Đức Thế Tôn biết thì trả lời biết, còn không biết thì nói là không biết.

Trong năm tự tánh “thức” là một là danh hai là tướng ba là phân biệt, bốn là chánh trí, năm là Như NhưBan sơ các vị Bà-la-môn đến với Đức Thế Tôn dù rằng nhận ra giáo lí Vệ-đà có cái gì đó không trung thực không đưa đến giải thoát thật sự theo mong cầu của họ. Để giải trừ chấp thủ“Danh”, “Tướng” thường hằng trong giáo lí Vệ-đà Đức Thế Tôn dùng tự tánh thứ ba là “Phân biệt” chỉ cho các vị đó rằng: Danh, Tướng mà các vị Bà-la-môn chấp thường hằng đó là “Biên kế sở chấp”. Vì sao? Vì là Nhị Nguyên vì  nó sinh-diệt bị chi phối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4980)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4366)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4656)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4701)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5854)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3294)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5258)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2923)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4133)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5281)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4262)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3318)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6358)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5329)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4620)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6233)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6104)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3888)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6032)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4639)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4785)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3384)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6273)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4942)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3541)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3471)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5666)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4235)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5980)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5235)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3669)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3753)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3704)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3529)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5361)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4009)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4358)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5820)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3121)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3064)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3855)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4853)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3569)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3037)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4569)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4718)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3431)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3986)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4723)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3563)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3602)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5131)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4154)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3288)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2995)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3034)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3104)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3100)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3472)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3998)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant