Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mảng Tối Dưới Chân Đèn

02 Tháng Tám 201808:09(Xem: 5001)
Mảng Tối Dưới Chân Đèn

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ  

MẢNG TỐI DƯỚI CHÂN ĐÈN

Nhụy Nguyên

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ


Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điểnĐàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”. PhậtThích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật.

Vì sao nói lời nào đều phải liên hệ với kinh điển? Nếukinh điển không mang sinh khí thời đại, không trựctiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không còn tựbảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước những phát hiện khoa học về con người và bản thể vũ trụKinh điển ấy… lỗi thờiKinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều có thể soi vào mà chỉnh sửa, ấy là chân kinh.

Thế kỷ XXI - thời đại khoa học công nghệ. Nhiều phát minh, khám phá làm chấn động nhân loại. Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước đó khoa học phát hiện bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước hồ Tỳ Bà ô nhiễm rộng mênh mông, sau một buổi hồ nước dần trong trở lại.Thân thể người do tứ đại hợp thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật có nguồn từ sân hậnchấp trướcphân biệttự lợixan tham, mê đắm, tật đố, ngã mạn…, những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô. Nhiều ngôi chùa nhận chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay, nghe giảng pháp… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh,trong sáng) chứ ít chú trọng chữa thân, vì thân vật lý chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với mặt tinh thần trong chỉnh thể người. Người mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh cuối cùng ngăncách sống chết. Yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe kinh, lạy Phật sám hối mà họ cũng lắc đầu, trong lúc chùa không chút vụ lợi; đủ thấy ta chấp chặt sự thiên lệch về vật chấtĐại sưBuddhadasa người Thái Lan trong cuốn "Cốt lõi của cội Bồ đề" (Hoang Phong dịch) gọi đây là "bệnh tâm linh" - "là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”. Và "Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả". Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta, như áo quần). Khoa học cho thấy những người “chết giả”, hồn họ tạm lìa thân và họ thấy được xác mình, họ thấy được những người từng chết trước đó, thậm chí thấy cả những vị thánh. Một khi có họ đứng nhìn xác mình, dĩ nhiên các xác ấy không phải mình rồi, hay hiểu đơn giản: Chết không phải hết. Chết vẫn còn ta, vậy sao ta không mảy may tìm hiểu cảnh giới sau cái chết, và cái gì sẽ giúp ta lúc bỏ thân này.

Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển nhận thức loài người, khoa học gia phải mất vô số thời gian, đâu hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật. Còn vô vàn kinh điển nữa đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều sợ muộn màng, sợ đến lúc chúng ta có chứng cứ trong tay e hành tinh xanh đã hoang hóa. Khoa học thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng nhiều người vẫn chỉ “sử dụng” những câu kinh đã được thực chứng, thế nên một pháp sư gọi hiện tượngnày là “mê tín khoa học”!

Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?” (Ở đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai - không từ đâu đến, không đi về đâu - Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”). Lời Hòa thượng Tuyên Hóa: “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốtbiết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Biết đâu chúng ta đến hồng trần này từ bên châu Phi; biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷđầu thai thăng lên hay từ cõi trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình sẽ về Cực lạc thế giới khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật nhập diệtngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển và những vị được giới chân tu xem là chứng quảBồ tát hóa hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc”! (Kinh Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ”. Một người đời nay không thể không biết - pháp sư ChinKung. Ngài bảo những “người cúi lạy Phật mà không hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín”. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không tham thiền,quán chiếu và sống với thực tại chánh giác, học Tịnh độ lại không chuyên niệm Phật) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên biển. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. (Tuy nhiên), cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được? Y giáo phụng hành là lẽ căn cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác. Bởi nhân quả vốn thường hằng bất biến, tin hay không thì từng giây phút bất cứ chúng sanh nào cũng bị chi phối bởi nhân quả. Từng giây phút phước họa chiêu cảm từ ý niệm và hành vi của ta đều chi phốiđến vận mạng của ta.

Hành vi thì đương nhiên ảnh hưởng đến thọ mạng chúng ta, nhưng khoa học lượng tử đã chứng minh (kinh điển), là những suy nghĩ của chúng ta chẳng những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của ta mà còn ảnh hưởng đến toàn thời không trong vũ trụBản thân tôi từng sản sinh nhiềuquan điểm lệch lạc về Phật pháp. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các ấn phẩm, sách xuất bản, sự ảnh hưởng lan rộng, người viết ra nó sẽ nhận về phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm - những ý nghiệp hằn sâu trong tâm thức trước ngày đến với Phật. Mới hay không nương vào lời Phật thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một câu song (do mức ảnh hưởng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp, ai không biết nguyên lý này đương nhiên thường trách trời sao tôi khổ, sao tôi không tạo ác với ai lại khổ thế này.

Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đátcon người kêu gào trời Phật, nhưng trời Phật dường như không thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữKhông, tôi xem đó là sự phủ nhận trần gian.

Cơ duyên giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về chữ Khôngthật sự nghiêm trọng. “Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa”. Luận về Triết học và Tôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng lẫn lộn không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ của Tánh Không”.

Học Phật nhằm thấu tỏ vạn pháp huyễn giả rồi buông xuống. Khi ta buông cái không phải chân lý, ngay đó là chân lý, ngay đó sẽ phần nào linh cảm được chút ít về Tánh Không. Nhưng vẫn còn một cái ta biết/“sở hữu” chân lý ấy cũng cần buông để trở về như nhiên thuần thiện thuần tịnh và thuần lợi người cùng vạn vật - cái này khi dùng ngôn ngữ diễn tảphải chăng người ta gọi nó là chân lýtối thượng? Nói vậy cũng đã lộng ngôn, bởi giả như cái mà phàm tình tôi có thể hiểu đến, âu cũng là cái thấy trong mộng mà thôi.

Một Hòa thượng người Việt Nam ví Không như con số không (0). Nó vốn không là gì song thiếu số 0 thì mọi tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này - Tất cả pháp được thành - Nếu không có nghĩa Không - Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận - Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng khác chi nói Phật giáophủ nhận nhân gianKinh Pháp Hoa có một câu rất đặc biệt: “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”; "Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng." (Trích Mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheonếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ninếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ". (Kinh Pháp Hoaphẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng đạo liền “chán bỏ” thế gian,ngồi thiền chìm đắm, quên hóa độ chúng sinh. Thế nên Đức Phật giảng cho những đệ tử đầu tiênchứng đạo: “Hãy lên đường, này các Tỳ kheovì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gianvì lợi ích và an lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt Lai Lạt Ma căn dặn: “Đã tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc chứng Bồ đề phải “vì người mến thíchcảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyệnlớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh”.

“Vạn pháp giai khôngduyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư nghì. Ở cấp độ phàm phu, chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt, mức cực vi tế. Một lão pháp sưgiảng: một giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt chúng tachỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại. Mức sinh diệt quá nhanh nênnhục nhãn bị lừa.

Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát Nhã Tâm Kinh). Mỗi người khi sống chính là có hình tướng, lúc chết thì tan rã trở về không (hình tướng). “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiếnThế Thân).Không ấy đâu phải là không. Chính là còn linh hồn (theo cách gọi dân gian; thực tế khái niệm Linh Hồn không có ở pháp Chân đế); gọi đúng là thần thức, hay thức alaya. Tam giới duy tâmTâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư,thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39).

Sách Truyền đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”: Có người hỏi Thiền sư Triệu Châu: - “Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: “Không”. Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sao con chó lại không. Không, “cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không là “vô”. “Vô” là vô nhịtướng. Nếu bậc chân tu miên mật, họ chẳng những hòa cùng tạp niệm bất thiện mà cả niệm thiện, để đạt đếnđịnh trong động, tức thường tại định.

Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc nghĩ oan cho cái Không, thì hàng loạt suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý nói Phật tuy lớn khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương Y sợ rằng sẽ ban phát thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên không đạt được.

Nói đạo lộ của Phật vốn ảo tưởng, là bóp méo kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Ở Việt Nam có Bồ tát Thích Quảng Đức; có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông,Hòa thượng Từ Đạo Hạnh, v.v. Nước ngoài có các tổ sư thuộc Thiền và Tịnh, trong đó như ngàiHuệ Năng lưu lại thân xá lợi đến bây giờ. Thời hiện đại có Đức Đạt Lai Lạt Ma; rất nhiều vị chứng quả Thánh, nhiều vị tu niệm Phật đạt Tam muộibiết trước ngày giờ vãng sanh về thế giới Cực Lạc, lúc đi còn để lại toàn thân xá lợi vàng ròng bất hoại trước thời gian. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một pháp sư xứ Ấn xem đó là kiến thức ao hồ (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào, đơn cử như tinh thần bài viết này), lâu ngày nước không cạn cũng đục. Bậc đắc đạo giảng pháp suốt đời không lặp chủ đề. Có vị riêng giảng bộ kinh Hoa Nghiêm đến 17 năm; lần giảng thứ hai chưa được 1/5 bộ đã lên tới ba vạn giờ. Có vị suốt ba mươi năm không xem thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ ba la mật, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy.

Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật. Họ xem Phật ngang với hàng thần linh. Phật là bậc minh bạchhiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên lời Phật đều là nói về bản thân con người và hoàn cảnh sống; có xa rời thực tế bao giờ. Phật chỉ con đường thấu tỏ cuộc đời vốn bể dâu, cực khổ. Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạyThân tâm an lạc, cuộc sống thanh tịnh chính là cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứ và vị lai, chỉ giữ lấy một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi trược này, dĩ nhiên quan niệm của họ không sai. Học Phật chính là phá mê; “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn cách với các kiếp trước sau tương tục; còn trong cuộc sống cần chuyển hết vọng tưởng phân biệt chấp trước vạn sự về thuần nhất. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnh và giáo lý của Phật. Thập thiện chính là máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đếTứ chánh cầnThập thiệnBát chánh đạoThập nhị nhân duyênLục độPhổ Hiền hạnh nguyện… là những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là thời… Diệt PhápMạt Kiếp - hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Cũng được biết rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời “loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn Phật làm Thầy. Tương lai hòa bình thế giới, thực sự Phật pháp đóng một vai trò trọng yếu nếu biết nương vào, biết trì giữ giới luật của Phật để ai cũng được ân hưởng từ quy luật vũ trụ nhờ ý nghĩ và hành vi tương hợp với tánh chân thiện của vũ trụ.

Bản thân cũng từng sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại mới thấm tội. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời: “đâu như cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này… Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh đâu chả thấy…”. Bây giờ mới hiểu để kịp sửa lại: “Chứ mô như thằng cha giả cạo đầu làm sư hay tới nhà con mệ đầu xóm này…”. Tuy chỉ đính chính được vài nơi; nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không thể sữa chữa ngoài việc sám hối,chuyển tâm về với Phật, dùng chánh kiến hóa giải tà kiến.

Những dòng trên, dân gian nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy, rồi “quy kết” Mạt PhápThực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến thời Diệt Pháp(sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn “Nam mô A Di Đà Phật”. Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn pháp được nén vào 6 chữ (hoặc 4 chữ A Di Đà Phật). Thoát luân hồi phải là mục tiêu căn cốt nhất trong kiếp người. Không nhắm đến mục tiêu này, “duyên” rơi vào tuyệt lộ dễ như bỡn. Chúng sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính làTam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà lửa - Tam giới như hỏa trạch). Con người không nhìn thấyngạ quỷ và chúng sinh trong địa ngục, không chịu tin mình cũng có duyên vào đó dạo chơi nên không tin đời Bể Khổ, cũng dễ hiểu (!).
Trong sự gọi “Mạt Pháp”, ở tôi góp thêm tội nghiệp. Kinh chép, thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: "Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể...”. Chưa nói kiếp sau, mà vớiquả báo nhỡn tiền, tôi đã chứng kiến cơn bệnh trầm kha của nhiều người coi trời bằng vung, không chút tín tâm về miền huyền diệu, thỏa sức tạo nghiệp, thỏa sức kiêu mạn và đang tâm sát hại, tổn hại người và vật, khiến quãng cuối đời thực sự là địa ngục đối với họ.

Bước đầu tiên vào cửa Phật, đã thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời, các cảnh giới, tôivẫn có một sự so sánh kỳ cục. Một nhân vật không thể cưỡng sức hút ghê gớm của đàn bà, nhân vật ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm Phật pháp. Sức hút tinh thầnchính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu mà đạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” bị cơn lốc cuốn theo mọi tạp nhơ; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ thõng vào hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của mê. Mê quá sâu cái hạ tiện! Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng phục được hổ.Vạn ác dâm làm đầu; mê sâu dục lạc sẽ khiến con người bỏ lại phía sau tâm hiếu kính khiêm hạ vốn là nền tảng là thước đo giá trị kiếp người. Bởi mê quá sâu cái thấp hèn nên trí tuệ bị che mờ. Giới của người chuyên tu luôn xem trọng tránh sa vào cái thấp hèn, vì nó là nghiệp dẫn đầu khiếntâm không định; tâm không định sẽ không sanh trí tuệ, không sanh trí tuệ sẽ không soi chiếu trở lạithứ ánh sáng khiến người ta bước lên một tầng thanh cao, để hưởng pháp vị vượt lên mọi dục thế gian.

Ở tác phẩm khác chưa công bốmô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương thân lánh nạn, tôi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong trăm ngàn người, để thấy người chân thật trì giới tu Tịnh độ nguyện sanh về nước Phật, phải tìm mờ mắt. Bậc đại đứctài sản của họ chỉ vài bộ y, mỗi ngày ăn đạm bạckhông thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ nghèo”; họ không nắm tiền, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn tống kinh điển hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựanúi Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quảthực hiệnước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng Tuyên Hóa, trong một buổigiảng Kinh năm 1969 có dặn: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường. Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụ là ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoạiphung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người chạy đến chùa chiền xâm hại ở trên tội thực khôngnhỏ. Tam bảo là nơi dành cơ hội duy nhất cho con người thoát khỏi sự lầm mê. Chúng ta xâm lạiTam bảo cũng bằng tự che mắt thánh làm điều sai quấy. Kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vươngnêu chi tiết những ai phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báo ở địa ngục nhiều kiếp thật khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng với hình hài dị tật.

Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt nghĩa: Phật không phải thần thánhDĩ nhiên, người chứngsơ quả tức siêu phàm nhập thánhQuả vị cao hơn như Sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần thông. Song không bao giờ có chuyện họ thị hiện. Do chúng sanh cần tự ngộhiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ (vốn có ở Ma), đánh mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không ngộ dẫu có tu được chút thần thông cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyểnsai lầm của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật; chập chữngtheo Phật, lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánh là tín đồ tôn giáo (trong khi gốc Đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo: Phật tánh (chứa đầy đủ phước báu và trí huệ) có sẵn trong tâm vọng kia, hãy tin ở chính mình, trọn làm theo lời ta sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin và hành theo Giới - Định - Tuệ mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn: “Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt đượcchân Pháp.” Gyalwang Drukpa XII gọi đó là "thông điệp vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: "Nếu như vị A la hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A la hán, thời chính là còn chấp trướctướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả". Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng thánh (dẫu là quả Tu đà hoàn), người ấy sẽ tự bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống... hố đen. Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là Phật hay Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng(Phật Di Lặc), Hàn SơnThập Đắc (Bồ tát Văn ThùPhổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A Di Đà),… Chuyện về tổ Ấn Quang thời hiện đại (được xem là Bồ tát Đại Thế Chí tái lai) là một minh chứng.

Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánhPháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếpđạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh - Lão Tử).Chúng ta thường dịch Thiền là suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn rỗng Không, vốn làthực tại nhi nhiên, trong sáng đến… ngây thơ. “Lập thiền” thì nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ, sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc chết nằm trong quan tài rữa nát… Đến một lúchành giả sẽ định lại ở một mảnh người nào đó. Cao nhất là Thiền tự tánh thuộc Đại thừa, nghĩa làTánh vốn định, đi đứng nằm ngồi đều ở trong định. Tôi từng được thân cận với người niệm Phật mànhư không niệm, là tâm niệm, họ đứng hay ngồi hay nằm đều có thể cận định.

Đời nay vẫn có nhiều bậc trì giới một cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Họ không cần biết giới luật là mạng sống của Phật pháp, ở đâu không có giới luật ở đó không tồn tại Phật phápGiới luật vốn là nền móng, không có nền móng là xây nhà giữa hư không, vin vào một niềm tin ảo tưởng. Phật đưa ralối tu trung đạo (hành theo Bát chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chínhphải ngày vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phậtlạy Phật, ở chùa thì ai nấy 3, 4 giờ sáng đã thức dậy chuẩn bị công phu. Đối với các bậc thượng căn thì mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên núi bế quanăn rau củ tự kiếm, nhiều lúc thiếu thốn suýt mất mạng. Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt đá cũng gục. Nghị lực phi thường đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí, luyện đan, luyện gang thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Bậc minh sư đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong ác đạo, tùy chọn.

Nhớ hồi đọc Thiền luận, tôi gán yếu tố “cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộKinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phậtđạo”. (Nếu người tâm tán loạnđi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ thành Phậtđạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là "sẽ thành" như Phật nói: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"; còn thành lúc nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lênthế giới thanh tịnh của Phật A Di ĐàCâu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong nhiều đời quá khứ của ông không thấy có nhân. Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó các ông không thấy; có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ, ông trèo lên cây, ngửa mặt lên trời "Nam mô Phật" cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết. Nhân lành ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắnkiếp nào trên đường dài tiến hóa, có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được bao nhiêu phước, có người tu theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn phàm.

Cũng như bản thân lạm bàn về giáo pháp thật vô cùng hổ thẹnPhật học là đại dương, tôi chỉ có vốc nước soi khuôn mặt nhớp nháp. Phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc chưa đủ sức đuổi theo, những dòng thô mộc là mong người đọc ghi nhận ở tôi lời sám hối chân thành

Nhụy Nguyên


Trích từ: 
Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không (Nhụy Nguyên)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7303)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6939)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9305)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5804)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7064)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6481)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6062)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7125)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14316)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20337)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9439)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7820)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8159)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7410)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9339)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7420)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7436)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7631)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9416)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8738)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7320)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7931)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6980)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7642)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9827)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8257)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8793)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7644)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8797)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8599)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7970)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8967)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9388)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8681)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8856)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7200)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9124)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8560)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7858)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9572)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10111)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8716)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8309)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7594)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9289)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7446)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15291)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7258)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8444)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12191)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7275)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11461)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8276)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8000)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7881)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8877)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7386)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18130)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9311)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7959)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant