Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Mảng Tối Dưới Chân Đèn

02 Tháng Tám 201808:09(Xem: 4905)
Mảng Tối Dưới Chân Đèn

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ  

MẢNG TỐI DƯỚI CHÂN ĐÈN

Nhụy Nguyên

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ


Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điểnĐàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”. PhậtThích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật.

Vì sao nói lời nào đều phải liên hệ với kinh điển? Nếukinh điển không mang sinh khí thời đại, không trựctiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không còn tựbảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước những phát hiện khoa học về con người và bản thể vũ trụKinh điển ấy… lỗi thờiKinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều có thể soi vào mà chỉnh sửa, ấy là chân kinh.

Thế kỷ XXI - thời đại khoa học công nghệ. Nhiều phát minh, khám phá làm chấn động nhân loại. Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước đó khoa học phát hiện bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước hồ Tỳ Bà ô nhiễm rộng mênh mông, sau một buổi hồ nước dần trong trở lại.Thân thể người do tứ đại hợp thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật có nguồn từ sân hậnchấp trướcphân biệttự lợixan tham, mê đắm, tật đố, ngã mạn…, những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô. Nhiều ngôi chùa nhận chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay, nghe giảng pháp… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh,trong sáng) chứ ít chú trọng chữa thân, vì thân vật lý chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với mặt tinh thần trong chỉnh thể người. Người mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh cuối cùng ngăncách sống chết. Yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe kinh, lạy Phật sám hối mà họ cũng lắc đầu, trong lúc chùa không chút vụ lợi; đủ thấy ta chấp chặt sự thiên lệch về vật chấtĐại sưBuddhadasa người Thái Lan trong cuốn "Cốt lõi của cội Bồ đề" (Hoang Phong dịch) gọi đây là "bệnh tâm linh" - "là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”. Và "Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả". Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta, như áo quần). Khoa học cho thấy những người “chết giả”, hồn họ tạm lìa thân và họ thấy được xác mình, họ thấy được những người từng chết trước đó, thậm chí thấy cả những vị thánh. Một khi có họ đứng nhìn xác mình, dĩ nhiên các xác ấy không phải mình rồi, hay hiểu đơn giản: Chết không phải hết. Chết vẫn còn ta, vậy sao ta không mảy may tìm hiểu cảnh giới sau cái chết, và cái gì sẽ giúp ta lúc bỏ thân này.

Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển nhận thức loài người, khoa học gia phải mất vô số thời gian, đâu hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật. Còn vô vàn kinh điển nữa đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều sợ muộn màng, sợ đến lúc chúng ta có chứng cứ trong tay e hành tinh xanh đã hoang hóa. Khoa học thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng nhiều người vẫn chỉ “sử dụng” những câu kinh đã được thực chứng, thế nên một pháp sư gọi hiện tượngnày là “mê tín khoa học”!

Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?” (Ở đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai - không từ đâu đến, không đi về đâu - Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”). Lời Hòa thượng Tuyên Hóa: “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốtbiết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Biết đâu chúng ta đến hồng trần này từ bên châu Phi; biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷđầu thai thăng lên hay từ cõi trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình sẽ về Cực lạc thế giới khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật nhập diệtngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển và những vị được giới chân tu xem là chứng quảBồ tát hóa hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc”! (Kinh Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật: “Những kẻ không tin lời Như Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ”. Một người đời nay không thể không biết - pháp sư ChinKung. Ngài bảo những “người cúi lạy Phật mà không hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín”. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không tham thiền,quán chiếu và sống với thực tại chánh giác, học Tịnh độ lại không chuyên niệm Phật) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên biển. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. (Tuy nhiên), cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được? Y giáo phụng hành là lẽ căn cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác. Bởi nhân quả vốn thường hằng bất biến, tin hay không thì từng giây phút bất cứ chúng sanh nào cũng bị chi phối bởi nhân quả. Từng giây phút phước họa chiêu cảm từ ý niệm và hành vi của ta đều chi phốiđến vận mạng của ta.

Hành vi thì đương nhiên ảnh hưởng đến thọ mạng chúng ta, nhưng khoa học lượng tử đã chứng minh (kinh điển), là những suy nghĩ của chúng ta chẳng những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của ta mà còn ảnh hưởng đến toàn thời không trong vũ trụBản thân tôi từng sản sinh nhiềuquan điểm lệch lạc về Phật pháp. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các ấn phẩm, sách xuất bản, sự ảnh hưởng lan rộng, người viết ra nó sẽ nhận về phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm - những ý nghiệp hằn sâu trong tâm thức trước ngày đến với Phật. Mới hay không nương vào lời Phật thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một câu song (do mức ảnh hưởng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp, ai không biết nguyên lý này đương nhiên thường trách trời sao tôi khổ, sao tôi không tạo ác với ai lại khổ thế này.

Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đátcon người kêu gào trời Phật, nhưng trời Phật dường như không thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữKhông, tôi xem đó là sự phủ nhận trần gian.

Cơ duyên giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về chữ Khôngthật sự nghiêm trọng. “Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa”. Luận về Triết học và Tôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng lẫn lộn không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ của Tánh Không”.

Học Phật nhằm thấu tỏ vạn pháp huyễn giả rồi buông xuống. Khi ta buông cái không phải chân lý, ngay đó là chân lý, ngay đó sẽ phần nào linh cảm được chút ít về Tánh Không. Nhưng vẫn còn một cái ta biết/“sở hữu” chân lý ấy cũng cần buông để trở về như nhiên thuần thiện thuần tịnh và thuần lợi người cùng vạn vật - cái này khi dùng ngôn ngữ diễn tảphải chăng người ta gọi nó là chân lýtối thượng? Nói vậy cũng đã lộng ngôn, bởi giả như cái mà phàm tình tôi có thể hiểu đến, âu cũng là cái thấy trong mộng mà thôi.

Một Hòa thượng người Việt Nam ví Không như con số không (0). Nó vốn không là gì song thiếu số 0 thì mọi tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này - Tất cả pháp được thành - Nếu không có nghĩa Không - Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận - Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng khác chi nói Phật giáophủ nhận nhân gianKinh Pháp Hoa có một câu rất đặc biệt: “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”; "Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng." (Trích Mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheonếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ninếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ". (Kinh Pháp Hoaphẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng đạo liền “chán bỏ” thế gian,ngồi thiền chìm đắm, quên hóa độ chúng sinh. Thế nên Đức Phật giảng cho những đệ tử đầu tiênchứng đạo: “Hãy lên đường, này các Tỳ kheovì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gianvì lợi ích và an lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt Lai Lạt Ma căn dặn: “Đã tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc chứng Bồ đề phải “vì người mến thíchcảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyệnlớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh”.

“Vạn pháp giai khôngduyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư nghì. Ở cấp độ phàm phu, chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt, mức cực vi tế. Một lão pháp sưgiảng: một giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt chúng tachỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại. Mức sinh diệt quá nhanh nênnhục nhãn bị lừa.

Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát Nhã Tâm Kinh). Mỗi người khi sống chính là có hình tướng, lúc chết thì tan rã trở về không (hình tướng). “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiếnThế Thân).Không ấy đâu phải là không. Chính là còn linh hồn (theo cách gọi dân gian; thực tế khái niệm Linh Hồn không có ở pháp Chân đế); gọi đúng là thần thức, hay thức alaya. Tam giới duy tâmTâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư,thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39).

Sách Truyền đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”: Có người hỏi Thiền sư Triệu Châu: - “Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: “Không”. Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sao con chó lại không. Không, “cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không là “vô”. “Vô” là vô nhịtướng. Nếu bậc chân tu miên mật, họ chẳng những hòa cùng tạp niệm bất thiện mà cả niệm thiện, để đạt đếnđịnh trong động, tức thường tại định.

Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc nghĩ oan cho cái Không, thì hàng loạt suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý nói Phật tuy lớn khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương Y sợ rằng sẽ ban phát thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên không đạt được.

Nói đạo lộ của Phật vốn ảo tưởng, là bóp méo kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Ở Việt Nam có Bồ tát Thích Quảng Đức; có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông,Hòa thượng Từ Đạo Hạnh, v.v. Nước ngoài có các tổ sư thuộc Thiền và Tịnh, trong đó như ngàiHuệ Năng lưu lại thân xá lợi đến bây giờ. Thời hiện đại có Đức Đạt Lai Lạt Ma; rất nhiều vị chứng quả Thánh, nhiều vị tu niệm Phật đạt Tam muộibiết trước ngày giờ vãng sanh về thế giới Cực Lạc, lúc đi còn để lại toàn thân xá lợi vàng ròng bất hoại trước thời gian. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một pháp sư xứ Ấn xem đó là kiến thức ao hồ (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào, đơn cử như tinh thần bài viết này), lâu ngày nước không cạn cũng đục. Bậc đắc đạo giảng pháp suốt đời không lặp chủ đề. Có vị riêng giảng bộ kinh Hoa Nghiêm đến 17 năm; lần giảng thứ hai chưa được 1/5 bộ đã lên tới ba vạn giờ. Có vị suốt ba mươi năm không xem thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ ba la mật, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy.

Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật. Họ xem Phật ngang với hàng thần linh. Phật là bậc minh bạchhiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên lời Phật đều là nói về bản thân con người và hoàn cảnh sống; có xa rời thực tế bao giờ. Phật chỉ con đường thấu tỏ cuộc đời vốn bể dâu, cực khổ. Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạyThân tâm an lạc, cuộc sống thanh tịnh chính là cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứ và vị lai, chỉ giữ lấy một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi trược này, dĩ nhiên quan niệm của họ không sai. Học Phật chính là phá mê; “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn cách với các kiếp trước sau tương tục; còn trong cuộc sống cần chuyển hết vọng tưởng phân biệt chấp trước vạn sự về thuần nhất. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnh và giáo lý của Phật. Thập thiện chính là máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đếTứ chánh cầnThập thiệnBát chánh đạoThập nhị nhân duyênLục độPhổ Hiền hạnh nguyện… là những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là thời… Diệt PhápMạt Kiếp - hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Cũng được biết rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời “loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn Phật làm Thầy. Tương lai hòa bình thế giới, thực sự Phật pháp đóng một vai trò trọng yếu nếu biết nương vào, biết trì giữ giới luật của Phật để ai cũng được ân hưởng từ quy luật vũ trụ nhờ ý nghĩ và hành vi tương hợp với tánh chân thiện của vũ trụ.

Bản thân cũng từng sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại mới thấm tội. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời: “đâu như cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này… Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh đâu chả thấy…”. Bây giờ mới hiểu để kịp sửa lại: “Chứ mô như thằng cha giả cạo đầu làm sư hay tới nhà con mệ đầu xóm này…”. Tuy chỉ đính chính được vài nơi; nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không thể sữa chữa ngoài việc sám hối,chuyển tâm về với Phật, dùng chánh kiến hóa giải tà kiến.

Những dòng trên, dân gian nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy, rồi “quy kết” Mạt PhápThực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến thời Diệt Pháp(sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn “Nam mô A Di Đà Phật”. Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn pháp được nén vào 6 chữ (hoặc 4 chữ A Di Đà Phật). Thoát luân hồi phải là mục tiêu căn cốt nhất trong kiếp người. Không nhắm đến mục tiêu này, “duyên” rơi vào tuyệt lộ dễ như bỡn. Chúng sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính làTam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà lửa - Tam giới như hỏa trạch). Con người không nhìn thấyngạ quỷ và chúng sinh trong địa ngục, không chịu tin mình cũng có duyên vào đó dạo chơi nên không tin đời Bể Khổ, cũng dễ hiểu (!).
Trong sự gọi “Mạt Pháp”, ở tôi góp thêm tội nghiệp. Kinh chép, thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: "Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể...”. Chưa nói kiếp sau, mà vớiquả báo nhỡn tiền, tôi đã chứng kiến cơn bệnh trầm kha của nhiều người coi trời bằng vung, không chút tín tâm về miền huyền diệu, thỏa sức tạo nghiệp, thỏa sức kiêu mạn và đang tâm sát hại, tổn hại người và vật, khiến quãng cuối đời thực sự là địa ngục đối với họ.

Bước đầu tiên vào cửa Phật, đã thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời, các cảnh giới, tôivẫn có một sự so sánh kỳ cục. Một nhân vật không thể cưỡng sức hút ghê gớm của đàn bà, nhân vật ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm Phật pháp. Sức hút tinh thầnchính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu mà đạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” bị cơn lốc cuốn theo mọi tạp nhơ; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ thõng vào hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của mê. Mê quá sâu cái hạ tiện! Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng phục được hổ.Vạn ác dâm làm đầu; mê sâu dục lạc sẽ khiến con người bỏ lại phía sau tâm hiếu kính khiêm hạ vốn là nền tảng là thước đo giá trị kiếp người. Bởi mê quá sâu cái thấp hèn nên trí tuệ bị che mờ. Giới của người chuyên tu luôn xem trọng tránh sa vào cái thấp hèn, vì nó là nghiệp dẫn đầu khiếntâm không định; tâm không định sẽ không sanh trí tuệ, không sanh trí tuệ sẽ không soi chiếu trở lạithứ ánh sáng khiến người ta bước lên một tầng thanh cao, để hưởng pháp vị vượt lên mọi dục thế gian.

Ở tác phẩm khác chưa công bốmô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương thân lánh nạn, tôi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong trăm ngàn người, để thấy người chân thật trì giới tu Tịnh độ nguyện sanh về nước Phật, phải tìm mờ mắt. Bậc đại đứctài sản của họ chỉ vài bộ y, mỗi ngày ăn đạm bạckhông thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ nghèo”; họ không nắm tiền, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn tống kinh điển hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựanúi Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quảthực hiệnước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng Tuyên Hóa, trong một buổigiảng Kinh năm 1969 có dặn: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường. Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụ là ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoạiphung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người chạy đến chùa chiền xâm hại ở trên tội thực khôngnhỏ. Tam bảo là nơi dành cơ hội duy nhất cho con người thoát khỏi sự lầm mê. Chúng ta xâm lạiTam bảo cũng bằng tự che mắt thánh làm điều sai quấy. Kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vươngnêu chi tiết những ai phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báo ở địa ngục nhiều kiếp thật khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng với hình hài dị tật.

Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt nghĩa: Phật không phải thần thánhDĩ nhiên, người chứngsơ quả tức siêu phàm nhập thánhQuả vị cao hơn như Sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần thông. Song không bao giờ có chuyện họ thị hiện. Do chúng sanh cần tự ngộhiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ (vốn có ở Ma), đánh mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không ngộ dẫu có tu được chút thần thông cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyểnsai lầm của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật; chập chữngtheo Phật, lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánh là tín đồ tôn giáo (trong khi gốc Đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo: Phật tánh (chứa đầy đủ phước báu và trí huệ) có sẵn trong tâm vọng kia, hãy tin ở chính mình, trọn làm theo lời ta sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin và hành theo Giới - Định - Tuệ mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn: “Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt đượcchân Pháp.” Gyalwang Drukpa XII gọi đó là "thông điệp vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: "Nếu như vị A la hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A la hán, thời chính là còn chấp trướctướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả". Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng thánh (dẫu là quả Tu đà hoàn), người ấy sẽ tự bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống... hố đen. Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là Phật hay Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng(Phật Di Lặc), Hàn SơnThập Đắc (Bồ tát Văn ThùPhổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A Di Đà),… Chuyện về tổ Ấn Quang thời hiện đại (được xem là Bồ tát Đại Thế Chí tái lai) là một minh chứng.

Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánhPháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếpđạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh - Lão Tử).Chúng ta thường dịch Thiền là suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn rỗng Không, vốn làthực tại nhi nhiên, trong sáng đến… ngây thơ. “Lập thiền” thì nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ, sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc chết nằm trong quan tài rữa nát… Đến một lúchành giả sẽ định lại ở một mảnh người nào đó. Cao nhất là Thiền tự tánh thuộc Đại thừa, nghĩa làTánh vốn định, đi đứng nằm ngồi đều ở trong định. Tôi từng được thân cận với người niệm Phật mànhư không niệm, là tâm niệm, họ đứng hay ngồi hay nằm đều có thể cận định.

Đời nay vẫn có nhiều bậc trì giới một cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Họ không cần biết giới luật là mạng sống của Phật pháp, ở đâu không có giới luật ở đó không tồn tại Phật phápGiới luật vốn là nền móng, không có nền móng là xây nhà giữa hư không, vin vào một niềm tin ảo tưởng. Phật đưa ralối tu trung đạo (hành theo Bát chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chínhphải ngày vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phậtlạy Phật, ở chùa thì ai nấy 3, 4 giờ sáng đã thức dậy chuẩn bị công phu. Đối với các bậc thượng căn thì mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên núi bế quanăn rau củ tự kiếm, nhiều lúc thiếu thốn suýt mất mạng. Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt đá cũng gục. Nghị lực phi thường đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí, luyện đan, luyện gang thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Bậc minh sư đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong ác đạo, tùy chọn.

Nhớ hồi đọc Thiền luận, tôi gán yếu tố “cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộKinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phậtđạo”. (Nếu người tâm tán loạnđi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ thành Phậtđạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là "sẽ thành" như Phật nói: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"; còn thành lúc nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lênthế giới thanh tịnh của Phật A Di ĐàCâu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong nhiều đời quá khứ của ông không thấy có nhân. Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó các ông không thấy; có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ, ông trèo lên cây, ngửa mặt lên trời "Nam mô Phật" cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết. Nhân lành ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắnkiếp nào trên đường dài tiến hóa, có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được bao nhiêu phước, có người tu theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn phàm.

Cũng như bản thân lạm bàn về giáo pháp thật vô cùng hổ thẹnPhật học là đại dương, tôi chỉ có vốc nước soi khuôn mặt nhớp nháp. Phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc chưa đủ sức đuổi theo, những dòng thô mộc là mong người đọc ghi nhận ở tôi lời sám hối chân thành

Nhụy Nguyên


Trích từ: 
Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không (Nhụy Nguyên)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17058)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13111)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17277)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21509)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13114)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14301)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12716)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13542)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28440)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34164)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28731)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32032)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26133)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17244)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14429)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13023)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12195)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13299)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40358)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26790)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14372)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13146)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13360)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12424)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13030)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12202)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11694)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12473)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17552)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12111)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12644)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18335)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14168)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12885)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11215)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12042)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13383)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10744)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10990)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10193)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28715)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25080)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26753)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25580)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18545)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22869)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34330)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31986)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30234)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30487)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20853)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20096)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19292)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30485)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15582)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant