Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?

05 Tháng Tám 201820:59(Xem: 6871)
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Hà Yên Sinh
Thích Trung Nghĩa dịch
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
Thời kì Nara có 6 tông phái: Tam luận, Pháp tướng, Hoa Nghiêm, Luật tông, Thành thật, Câu-xá, gọi là “Nam đô lục tông” (南都六宗), Đại tạng kinh chữ Hán cũng truyền nhập thời kì này. Thời kì đầu Heian có 2 tông: Hoa nghiêm, Chân ngôn, gọi là “Heian nhị tông” (平安二宗). 8 tông phái này chủ yếu là tín ngưỡng của thượng tầng quý tộc trong xã hội lúc đó.

Đến thời kì Kamakura thì Thiền tông, Tịnh độ tông, Nhật Liên tông nối tiếp phát triển, Phật giáo bắt đầu lưu hànhnhân gian. Sau khi Phật giáo du nhập, đã kết hợp với văn hóa truyền thống Nhật Bản, rồi hoạch đắc phát triển mới, hình thành một số tông phái dân tộc hóa. Trên lịch sử, Phật giáo phát sinh ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa Nhật Bản, mãi đến ngày nay, Phật giáo trên xã hội Nhật Bản vẫn có sức mạnh khá lớn. Để hiểu rõ Phật giáo Nhật Bản, nay giới thiệu ngắn gọn các tông phái chính Phật giáo Nhật Bản sau đây.

Tông phái thời kì Nara và Heian

Tam luận tông:do Tuệ Quán sáng lập. Tuệ Quánđệ tử của ngài Cát Tạng ở chùa Gia Tường. Sư đến Nhật Bản năm 625 sau Tây lịch, ở chùa Nguyên Hưng thời kì Asuka và giảng truyền Tam luận, bắt đầu kiến lập Tam luận tông, trở thành vị khai tổ đầu tiên về tông phái Phật giáo Nhật Bản. Sư có nhiều đệ tử rất có tiếng như Phước Lượng, Trí Tạng, Đạo Từ, họ từng đến triều nhà Đường để học tập Tam luận, thông thường hợp ba người này lại gọi là ‘Tam truyền’ (三传) của Tam luận tông. Tam luận tông nhấn mạnh nghiên cứu lý luận, xem nhẹ thực tiễn tôn giáo, nên lưu truyềnNhật Bản không lâu sau thì lần lượt bị tàn lụi. 

Pháp tướng tông:Pháp Tướng tôngNhật Bản có Tứ truyền. Thứ nhất là Đạo Thiệu. Sa môn Đạo Thiệu ở chùa Nguyên Hưng thời Nara, năm 653 sư đi theo sứ giả đến triều nhà Đường, làm học trò học tập với ngài Huyền Trang. Sư ở đất Hán 7 năm, sau đó về nước ở chùa Nguyên Hưng, hoằng tuyên rạng rỡ học thuyết Pháp tướng. Truyền thứ hai là Trí Thông, Trí Đạt. Hai người này cùng dong thuyền đi đường biển đến đất Hán vào năm 658, bái kiến ngài Huyền Trang, tôn ngài Khuy Cơ làm để học giáo nghĩa Pháp tướng, học xong về nước, sau truyền sở học.

Truyền thứ ba là các vị: Trí Phụng, Trí Loan, Trí Hùng. Họ phụng chỉ đến triều Đường, học giáo nghĩa Duy thức với ngài Trí Chu, sau về nước hoằng rộng Duy thức. Truyền thứ tư là Huyền Phưởng, sư là đệ tử được Trí Phụng truyền lại, năm 717 sư vâng lệnh dong thuyền đến đất Hán, học tập giáo nghĩa Pháp tướng với ngài Trí Chu, ở đất Hán 18 năm, được hoàng đế Mông Huyền tông sắc ban ca-sa, đến năm 734 thì mang tạng kinh có được về nước, ở chùa Hưng Phước, hoằng rộng sở học. Xưa nay người ta gọi chung hai vị đầu là “Nam tự truyền” (南寺传) hoặc “Nguyên hưng tự truyền” (元兴寺传), gọi chung hai vị sau là “Bắc tự truyền” (北寺传) hoặc “Hưng phước tự truyền” (兴福寺传). 

Hoa Nghiêm tông: do Đạo Duệ thời Đường truyền nhập Nhật Bản. Đạo Duệ là tăng lữ ở chùa Đại Phước Tiên trong thành Lạc Dương. Sư nhận lời yêu cầu của tăng sĩ Vinh Duệ và Phổ Chiếu mà đến Nhật Bản. Năm 736, sư đem chương sớ Hoa Nghiêm qua Nhật Bản, hoằng dương Hoa Nghiêm.

Lúc đó cao tăng Triều TiênThẩm Tường cũng đến Nhật Bản, ở chùa Đại An, tinh thông giáo nghĩa Hoa Nghiêm tông, năm 740 lần đầu tiên Thẩm Tường giảng Hoa Nghiêm kinh trong đạo tràng chùa Kim Chung, là sơ tổ Hoa Nghiêm tông Nhật Bản, Hoa Nghiêm tông từ đó bắt đầu phát triển. Đến thời kì Kamakura, tuy nhiên có trở ngại, việc hoằng truyền của cao tăng gặp khó khăn, nên họ chỉ dừng lại ở trên nghiên cứu giáo nghĩa, mà chưa phổ cập dân gian, nên giáo nghĩa dần mờ nhạt. Chùa Tōdai-ji ở Nara là biểu trưng cho tông này.      

Luật tông:do Giám Chân thời Đường sáng lập. Sa-môn Nhật Bản là Vinh Duệ và Phổ Chiếu đến Đất hán vào năm 733 để cầu học giới luật, lúc đó nghe Giám Chân ở chùa Đại Minh trong Dương châu là bậc danh đức luật học đương thời, rồi dần dà lòng thành mời sư đến Nhật Bản hoằng hóa. Ban đầu sư đến Nhật Bản, tức là vào năm 743, sư cùng với đệ tử đem phẩm vật kinh sách lên thuyền đi về phía Đông, sáu lần vượt biển, gặp gian khổ chín chết một sống vẫn không rút lui, chịu mọi gian nan, cuối cùng đến Nhật Bản vào năm 753, được tăng tục triều đình Nhật Bản hân hoan đón rước.

Năm sau sư đến kinh sư. Thiên hoàng hạ chiếu an trí ở chùa Tōdai-ji, hưng kiến giới đàn. Thiên hoàng, hoàng hậu và hoàng thái tử cùng hơn 400 người đăng đàn thọ giới bồ-tát, những tăng sĩ Nhật Bản như Linh Dụ, Hiền Giới, Chí Trung đều bỏ giới củ mà thọ giới mới, đó là giới đàn truyền giới đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 757, để có phương tiện luật học, sư xây chùa Chiêu Đề ở Nara, rồi kiến lập giới đàn. Sư là vị sơ tổ sáng lập Luật tông Nhật Bản. Sau đó, theo biến thiên năm tháng mà tông phong chìm lắng, thời gian lâu vẫn không mở giới đàn.    

Thực ra, ngoài Tứ tông ra, còn có Thành thật tôngCâu-xá tông. Thành thật tông do tăng sĩ người Triều TiênTuệ Quán thời Tùy sau khi đem Thành thật luận truyền nhập Nhật Bản, giảng tập ở Nhật Bảnlần lượt hình thành tông phái. Câu-xá tông do tăng Nhật BảnĐạo Chiêu, Trí Thông, Trí Đạt đến triều Đường rồi đem Câu-xá luận truyền vào Nhật Bản, sau đó giảng thuật rạng rỡ mà hình thành tông phái. Nhưng mà, nguồn gốc hai tông này chỉ là dựa trên Tam luận tôngPháp tướng tông mà thôi, chưa có hoằng truyền độc lập, cũng chưa được đặc biệt xem trọng.     

Thiên Thai tông: Tối Trừng (còn gọi là đại sư truyền giáo, 767~822) là vị sáng lập Thiên Thai tôngNhật Bản. Năm 840, sư dong thuyền đến đất Hán, rồi học tập giáo nghĩa Thiên Thai với Đạo Thúy và Hạnh Mãn, được Đạo Thúy truyền bồ-tát giới, rồi đến học thiền pháp với Pháp Dung trên núi Ngưu Đầu. Năm sau lại đến học tập Mật giáo với a-xà-lê Thuận Hiểu ở chùa Linh Nham, rồi thọ quán đỉnh Mật giáo. Đầu năm Thiên Hựu thời Đường, pháp môn mà sư đã học, nghiêng về bốn tông: Thiên thai tông, Chân ngôn tông, Thiền tông, Giới luật tông, nên gọi là “Tứ tông tương thừa”.

Sư về nước năm 805, ở núi Hiei, khai sáng Thiên Thai tông Nhật Bản, viết cuốn Đường quyết tập (唐诀集), Thủ hộ quốc giới chương (守护国界章), cuộc đời viết hơn 280 bản văn, sau khi viên tịch được vua phong thụy là “Truyền Giáo đại sư”. Trong số đệ tử của sư, có Viên NhânViên Trân cũng nối tiếp đến triều Đường cầu pháp, sau khi về nước, đã hoằng truyền rạng rỡ giáo nghĩa Thiên ThaiChân Ngôn tông, thúc đẩy Thiên Thai tông phát triển mau chóng ở Nhật Bản, đến nay vẫn thịnh không suy.     

Chân Ngôn tông: do không Hải sáng lập. Năm 804, Không Hải (774~835) đi cùng Tối Trừng theo sứ thần đến triều Đường, đến ở chùa Thanh Long trong thành Trường An, lạy a-xà-lê Huệ Quả làm thầy, được nhận hai bộ “Đại mạn-đà-la bí Mật pháp”, và được vị a-xà-lê truyền quán đỉnh, đồng thời còn ưa học ‘Tất đàm’ với tam tạng Bát-nhã. Năm Chí Đức thời Đường, sư mang về nước hơn 100 điển tịch nội điểnngoại điển, hoằng truyền rạng rỡ Mật giáo, được triều đình tôn sùng.

Sư khai sáng Chân Ngôn tông, mở mang đạo tràng căn bản trên núi Koya, viên tịch năm 835, vua sắc thụy hiệu “Hoằng Pháp đại sư”. Sư viết Bí mật mạn-đà-la giáo phú pháp truyện (秘密曼茶罗教付法传), Biện hiển mật nhị giáo luận (辨显密二教论), cuộc đời sư viết hơn 150 bản. Sư có các đệ tử như Thưởng Hiểu, Viên Hạnh cũng nối gót đến đất Hán cầu pháp, sau khi về nước, hoằng truyền sở học, nên mang tác dụng rộng lớn trong việc phát triển Chân ngôn tông Nhật Bản

Như trên đã trình bày, thời kì Nara và Heian là sơ truyền và giai đoạn hấp thu của Phật giáo Nhật Bản, trước sau thành lập các tông phái lớn đều trực tiếp hoặc gián tiếp do từ Trung Quốc truyền nhập, còn về giáo nghĩa thì kế thừa từ Phật giáo Trung Quốc mà không có đột phá mới. Tồn tạilưu truyền của các tông phái này, một mạch được xem là tư tưởng văn hóa mang tính chỉ đạo một dạng chính trị, tiếp nhận từ việc bảo vệ đất nước và quý tộc, rõ ràng có đủ tính quý tộc, nhưng không có nền tảng dân chúng. 

Tông phái mới được hưng khởi thời kì Kamakura: Thời kìKamakura, Phật giáo bắt đầu kết hợp với tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, rồi gặt hái được phát triển mới, tiếp tục hưng khởi Tịnh độ tông, Chân tông, Nhật Liên tôngThiền tông mang đầy đủ đặc thù dân tộc Nhật Bảntiếp tục hưng khởi. Những tông phái này, đều hướng đến việc truyền giáo cho dân chúng làm trọng điểm, trên giáo nghĩa thì xây dựng một hệ thống lý luận ách yếu gọn rõ để dân chúng dễ tiếp thu, chú trọng tư tưởng tín ngưỡng, từ đó phát triển nhanh chóng, nên gọi là “Kamakura tân Phật giáo” (鎌仓新佛教) hoặc “Nhật Bản Phật giáo (日本佛教).

Tịnh Độ tông: Pháp Nhiên (pháp danh Nguyên Không) là người sáng lập Tịnh Độ tông Nhật Bản. Pháp Nhiên (1133~1212), năm 13 tuổi lên núi Hiei xuất gia, theo a-xà-lê Hoàng Viên để học tập, nghiên cứu về huyền chỉ nhị môn: giáo, quán. Sau đó đến học hỏi các danh tăng, nghiêng về nghiên cứu Phật giáo, người thời đó gọi Pháp Nhiên là: “Tọa chủ Pháp Nhiên trí tuệ đệ nhất” (智慧第一法然座主). Từ lúc sư đọc đến đoạn “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà” trong cuốn Quán kinh tán thiện nghĩa (观经散善义) của ngài Thiện ĐạoTrung Quốc, mà có nhiều sở ngộ.

Năm 1175, sư khai sáng Tịnh Độ tông Nhật Bản “Nhất hướng chuyên tu tông”. Sư chưa từng đến Trung Quốc, nhưng lập tông khai giáo của sư được kế thừa tư tưởng Tịnh độ của ngài Thiện Đạo thời Đường Trung Quốc. Thông qua phán giáo của hệ thống, có thể thấy được ngoài các tông phái ra, còn sáng lập các hệ phái độc lập. Sau đại sư Không Hải sáng lập Chân Ngôn tông, có thể nói sư là người số một.

Sư viết cuốn Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập (选择本愿念佛集), luận thuật tôn chỉ của việc sáng lập Tịnh Độ tông, và công khai tuyên ngôn “Ta dựa vào bậc thầy Thiện Đạo, mà khai sáng Tịnh độ tông”. Sư chỉ định Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, A-di-đà kinhVãng sanh tịnh độ luận của ngài Thiên Thân là “Tịnh độ tam kinh nhất luận” để thành lập giáo nghĩa tịnh độ, chủ trương “xưng danh niệm Phật” liền  có thể vãng sanh Tây phương. Tịnh Độ tông sau đó phân ra hai phái lớn là: Trấn Tây phái, Tây Sơn phái. Sư có rất nhiều đệ tử, trong đó Thân Loanđệ tử rất nổi tiếng.     

Tịnh độ Chân tông:gọi tắt là Chân tông, do đệ tử của Pháp NhiênThân Loan sáng lập. Thân Loan (1173~1262) người Kyōto, xuất thân quý tộc, mẹ mất sớm từ nhỏ, sau  đến xuất gia với tăng chánh Viên Từ ở Thanh Liên viện, rồi có là pháp danh Phạm Yến, ở núi Hiei 10 năm, còn đến Nara để nghiên cứu tham học với luận sư các tông như Tam luận, Pháp tướng. Sau đó nghe Pháp Nhiên tuyên dương pháp môn dễ thực hành niệm Phật, sư lập tức đến thảo am Cát Thủy lạy xin Pháp Nhiên truyền dạy, và đổi tên là Xước Không. Lúc 31 tuổi, sư kết hôn với con gái quý của Kujō Kanezane, trở thành tăng sĩ có vợ đầu tiên ở Nhật Bản, cũng là bắt đầu cho quan hệ phát sinh giữa Chân tôngquý tộc.

Sau đó do từ việc phát sinh hai tăng sĩ: Trụ Liên, An Lạc phạm giới xuất giadâm dục với cung nữ, dẫn đến sư và họ bị đuổi khỏi, bị lưu đày đến Echigo (nay là Niigata), rồi sư tự xưng là “Ngu Thốc Thân Loan” (愚秃亲鸾). 5 năm sau thì gặp lúc Pháp Nhiên viên tịch, sư chuyển tới Tōhoku Nhật Bản để truyền giáo, rồi lấy họ là Ngu Thốc, chính thức đổi tên là Thân Loan. Sư viết bộ Giáo hạnh tín chứng văn loại (教行信证文类) gồm 6 quyển, là giáo điển căn bản để lập giáo khai tông. Sư nhấn mạnh ‘người ác’ cũng có thể vãng sanh Tây phương, dẫn đến dân chúng ưa chuộng. Chân tông về sau phát sinh rất nhiều hệ phái, chùa Hongan-ji và Otani phái rất có ảnh hưởng.  

Nhật Liên tông:còn gọi là Pháp Hoa tông, do Nhật Liên sáng lập. Nhật Liên xuất gia năm 16 tuổi, đạo hiệu là Thánh Phòng Liên Trưởng. Nhật Liên trước sau tới học tập ở các nơi như Kamakura, Kyōto, Nara, Cao Dã. Năm 1253, sư ở chùa Thanh Trừng sáng lập Nhật Liên tông. Chủ trương lấy Pháp Hoa kinh làm kinh điển dựa vào chính yếu, tuyên dương công đức theo Pháp Hoa kinh, chỉ có tuyên thuyết đề mục Pháp Hoa kinh và xướng niệm “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa kinh”, mới có thể cứu vớt chúng sanh, nên lần lượt ảnh hưởng nhiều trong xã hội dân chúng.

Sư viết cuốn Lập chánh an quốc luận (立正安国论), ra sức bài bác công kích các tông phái như: Tịnh độ, Thiền, Chân Ngôn. Sư nhiều lần dâng sớ lên triều đình Mạc phủ Tokugawa, thỉnh cầu ngăn cấm, sau đó bị phải Mạc phủ Tokugawa phán xét sư mang “Tội cuồng ngôn mê hoặc người”, nên sư nhiều lần bị lưu đày. Từ thế kỷ XIX về sau, trong Nhật Liên tông phát sinh ra nhiều tông phái mới hưng thịnh, như sáng lập Hội Soka Gakka, hội Risshō Kōsei Kai, hội Linh Hữu, đều thuộc ba chi phái hệ Nhật Liên tông. Những hệ phái thịnh hành mới này, đến nay chiếm hữu thế lực khá mạnh trong xã hội Nhật Bản.    

Thiền tông:Thiền tông Nhật Bản chia ra: Lâm Tế tôngTào Động tông, hai chi phái lớn đại khái như hệ thống Thiền tông Trung Hoa. Lâm Tế tông do tăng sĩ Nhật Bản Vinh Tây truyền nhập, Tào Động tông do tăng sĩ Nhật Bản Đạo Nguyên truyền nhập. Vinh Tây (1141~1215) từ năm 1168 và năm 1186 đã hai lần đến triều Tống, rồi tham học với các Thiền sư ở trên các ngọn núi Thiên Thai, Lư Sơn, Dục Vương, Thiên Đồng, sau đó đến ở chùa Vạn Niên trên núi Thiên Thai, yết kiến Thiền sư Hư Am, được truyền tâm ấn Lâm Tế, còn trao giấy chứng nhận và y cụ làm ấn tín.

Sau sư về nước thì lập hai chùa, phát triển sáng soi thiền học, đồ chúng tập trung, chủ trương ‘khán thoại thiền’, viết cuốn Hưng Thiền hộ quốc luận (兴禅护国论), cuộc đời sư viết 9 quyển, 7 bộ, trở thành tông phái mới Lâm Tế tông Nhật Bản. Lâm Tế tông hiện nay còn chia ra 15 hệ phái, Diệu Tâm tự pháiKiến Trường tự phái là có ảnh hưởng rất lớn.

Đạo Nguyênđệ tử do Vinh Tây truyền lại, cũng đến triều Tống vào năm 1233, trải qua tham học các Thiền sư ở trên các núi Thiên Đồng, Thiên Thai, Kinh sơn, sau đó được Thiền sư Như Tịnh ở chùa Cảnh Đức trên núi Thiên Đồng chỉ điểm bèn hoát nhiên khai ngộ, được ấn chứng, thọ truyền bí ẩn và tấm ảnh y cụ, về nước năm 1227, lập chùa Vĩnh Bình trên núi Tản Tùng, hoằng rạng rỡ thiền học, nhấn mạnh tu ‘mặc chiếu thiền’, đề xướng không “Cứ việc ngồi thiền, tức tâm là Phật”, viết cuốn Chánh pháp nhãn tạng (正法眼藏), cuộc đời sư viết 118 quyển, 9 bộ sách, xiển dương tôn chỉ Tào Động, sáng lập Tào Động tông Nhật Bản.    

Thiền sư Ẩn Nguyên thời Minh qua Nhật Bản khai sáng Hoàng Bá tông, và cùng với Lâm Tế, Tào Động mà lập thế chân vạc thành ba, tông phong đại khái tương đồng với Lâm Tế, cũng có xướng tụng, pháp thức âm thanh lời kinh, cũng có thay đổi quy cách phong thái, lúc đó trong chùa khích lệ sôi nỗi phong trào học vấn, cơ cấu giáo dục học vấn và nghĩa học các tông phái cũng theo thời cuộc mà phát triển. Hoạt động giáo dục rầm rộ, nhân tài xuất hiện rất nhiều trong các tông phái. Phật giáo Nhật Bản lần lượt hình thành: quốc gia hóa, xã hội hóa, gia đình hóa, chia rõ tông pháihiện đại học thuật hóa, dẫn đến đặc chất Phật giáo liên quan mật thiết đến đất nước và dân chúng.   

Bản văn trích lục từ tạp chí “Pháp âm”    

***

Tiến sĩ triết học Hà Yên Sinh (1962~?), Giáo sư tôn giáo học Đại học Women's Kōriyama (Koriyama Women's University) Nhật Bản. Lĩnh vực nghiên cứu của ông là tỉ giảo tôn giáo học, đối thoại tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo, sử tư tưởng Phật giáo, thiền học Đông Á; soạn viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Nhật Bản và tiếng Hán. Giới nghiên cứu Phật giáoTrung QuốcÂu Mỹ đánh giá ông là “Một vị học giả Phật giáo nổi tiếng có đủ tiêu chuẩn quốc tế” (theo Học viện triết học đại học Vũ Hán)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7017)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14174)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20175)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9355)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7684)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8013)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7285)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9228)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7305)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7317)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7523)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9326)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8621)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7194)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7793)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6880)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7534)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9695)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8164)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8691)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7507)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8707)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8482)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7880)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8826)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9250)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8558)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8743)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7061)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 8988)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8443)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7750)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9445)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 9981)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8604)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8152)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7495)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9170)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7341)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15152)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7124)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8357)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12030)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7155)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11357)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8175)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 7883)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7759)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8763)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7261)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18010)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9195)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7861)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8831)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7441)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8085)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9117)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9163)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 8860)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7616)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant