Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?

05 Tháng Tám 201820:59(Xem: 7030)
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Hà Yên Sinh
Thích Trung Nghĩa dịch
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
Thời kì Nara có 6 tông phái: Tam luận, Pháp tướng, Hoa Nghiêm, Luật tông, Thành thật, Câu-xá, gọi là “Nam đô lục tông” (南都六宗), Đại tạng kinh chữ Hán cũng truyền nhập thời kì này. Thời kì đầu Heian có 2 tông: Hoa nghiêm, Chân ngôn, gọi là “Heian nhị tông” (平安二宗). 8 tông phái này chủ yếu là tín ngưỡng của thượng tầng quý tộc trong xã hội lúc đó.

Đến thời kì Kamakura thì Thiền tông, Tịnh độ tông, Nhật Liên tông nối tiếp phát triển, Phật giáo bắt đầu lưu hànhnhân gian. Sau khi Phật giáo du nhập, đã kết hợp với văn hóa truyền thống Nhật Bản, rồi hoạch đắc phát triển mới, hình thành một số tông phái dân tộc hóa. Trên lịch sử, Phật giáo phát sinh ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa Nhật Bản, mãi đến ngày nay, Phật giáo trên xã hội Nhật Bản vẫn có sức mạnh khá lớn. Để hiểu rõ Phật giáo Nhật Bản, nay giới thiệu ngắn gọn các tông phái chính Phật giáo Nhật Bản sau đây.

Tông phái thời kì Nara và Heian

Tam luận tông:do Tuệ Quán sáng lập. Tuệ Quánđệ tử của ngài Cát Tạng ở chùa Gia Tường. Sư đến Nhật Bản năm 625 sau Tây lịch, ở chùa Nguyên Hưng thời kì Asuka và giảng truyền Tam luận, bắt đầu kiến lập Tam luận tông, trở thành vị khai tổ đầu tiên về tông phái Phật giáo Nhật Bản. Sư có nhiều đệ tử rất có tiếng như Phước Lượng, Trí Tạng, Đạo Từ, họ từng đến triều nhà Đường để học tập Tam luận, thông thường hợp ba người này lại gọi là ‘Tam truyền’ (三传) của Tam luận tông. Tam luận tông nhấn mạnh nghiên cứu lý luận, xem nhẹ thực tiễn tôn giáo, nên lưu truyềnNhật Bản không lâu sau thì lần lượt bị tàn lụi. 

Pháp tướng tông:Pháp Tướng tôngNhật Bản có Tứ truyền. Thứ nhất là Đạo Thiệu. Sa môn Đạo Thiệu ở chùa Nguyên Hưng thời Nara, năm 653 sư đi theo sứ giả đến triều nhà Đường, làm học trò học tập với ngài Huyền Trang. Sư ở đất Hán 7 năm, sau đó về nước ở chùa Nguyên Hưng, hoằng tuyên rạng rỡ học thuyết Pháp tướng. Truyền thứ hai là Trí Thông, Trí Đạt. Hai người này cùng dong thuyền đi đường biển đến đất Hán vào năm 658, bái kiến ngài Huyền Trang, tôn ngài Khuy Cơ làm để học giáo nghĩa Pháp tướng, học xong về nước, sau truyền sở học.

Truyền thứ ba là các vị: Trí Phụng, Trí Loan, Trí Hùng. Họ phụng chỉ đến triều Đường, học giáo nghĩa Duy thức với ngài Trí Chu, sau về nước hoằng rộng Duy thức. Truyền thứ tư là Huyền Phưởng, sư là đệ tử được Trí Phụng truyền lại, năm 717 sư vâng lệnh dong thuyền đến đất Hán, học tập giáo nghĩa Pháp tướng với ngài Trí Chu, ở đất Hán 18 năm, được hoàng đế Mông Huyền tông sắc ban ca-sa, đến năm 734 thì mang tạng kinh có được về nước, ở chùa Hưng Phước, hoằng rộng sở học. Xưa nay người ta gọi chung hai vị đầu là “Nam tự truyền” (南寺传) hoặc “Nguyên hưng tự truyền” (元兴寺传), gọi chung hai vị sau là “Bắc tự truyền” (北寺传) hoặc “Hưng phước tự truyền” (兴福寺传). 

Hoa Nghiêm tông: do Đạo Duệ thời Đường truyền nhập Nhật Bản. Đạo Duệ là tăng lữ ở chùa Đại Phước Tiên trong thành Lạc Dương. Sư nhận lời yêu cầu của tăng sĩ Vinh Duệ và Phổ Chiếu mà đến Nhật Bản. Năm 736, sư đem chương sớ Hoa Nghiêm qua Nhật Bản, hoằng dương Hoa Nghiêm.

Lúc đó cao tăng Triều TiênThẩm Tường cũng đến Nhật Bản, ở chùa Đại An, tinh thông giáo nghĩa Hoa Nghiêm tông, năm 740 lần đầu tiên Thẩm Tường giảng Hoa Nghiêm kinh trong đạo tràng chùa Kim Chung, là sơ tổ Hoa Nghiêm tông Nhật Bản, Hoa Nghiêm tông từ đó bắt đầu phát triển. Đến thời kì Kamakura, tuy nhiên có trở ngại, việc hoằng truyền của cao tăng gặp khó khăn, nên họ chỉ dừng lại ở trên nghiên cứu giáo nghĩa, mà chưa phổ cập dân gian, nên giáo nghĩa dần mờ nhạt. Chùa Tōdai-ji ở Nara là biểu trưng cho tông này.      

Luật tông:do Giám Chân thời Đường sáng lập. Sa-môn Nhật Bản là Vinh Duệ và Phổ Chiếu đến Đất hán vào năm 733 để cầu học giới luật, lúc đó nghe Giám Chân ở chùa Đại Minh trong Dương châu là bậc danh đức luật học đương thời, rồi dần dà lòng thành mời sư đến Nhật Bản hoằng hóa. Ban đầu sư đến Nhật Bản, tức là vào năm 743, sư cùng với đệ tử đem phẩm vật kinh sách lên thuyền đi về phía Đông, sáu lần vượt biển, gặp gian khổ chín chết một sống vẫn không rút lui, chịu mọi gian nan, cuối cùng đến Nhật Bản vào năm 753, được tăng tục triều đình Nhật Bản hân hoan đón rước.

Năm sau sư đến kinh sư. Thiên hoàng hạ chiếu an trí ở chùa Tōdai-ji, hưng kiến giới đàn. Thiên hoàng, hoàng hậu và hoàng thái tử cùng hơn 400 người đăng đàn thọ giới bồ-tát, những tăng sĩ Nhật Bản như Linh Dụ, Hiền Giới, Chí Trung đều bỏ giới củ mà thọ giới mới, đó là giới đàn truyền giới đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 757, để có phương tiện luật học, sư xây chùa Chiêu Đề ở Nara, rồi kiến lập giới đàn. Sư là vị sơ tổ sáng lập Luật tông Nhật Bản. Sau đó, theo biến thiên năm tháng mà tông phong chìm lắng, thời gian lâu vẫn không mở giới đàn.    

Thực ra, ngoài Tứ tông ra, còn có Thành thật tôngCâu-xá tông. Thành thật tông do tăng sĩ người Triều TiênTuệ Quán thời Tùy sau khi đem Thành thật luận truyền nhập Nhật Bản, giảng tập ở Nhật Bảnlần lượt hình thành tông phái. Câu-xá tông do tăng Nhật BảnĐạo Chiêu, Trí Thông, Trí Đạt đến triều Đường rồi đem Câu-xá luận truyền vào Nhật Bản, sau đó giảng thuật rạng rỡ mà hình thành tông phái. Nhưng mà, nguồn gốc hai tông này chỉ là dựa trên Tam luận tôngPháp tướng tông mà thôi, chưa có hoằng truyền độc lập, cũng chưa được đặc biệt xem trọng.     

Thiên Thai tông: Tối Trừng (còn gọi là đại sư truyền giáo, 767~822) là vị sáng lập Thiên Thai tôngNhật Bản. Năm 840, sư dong thuyền đến đất Hán, rồi học tập giáo nghĩa Thiên Thai với Đạo Thúy và Hạnh Mãn, được Đạo Thúy truyền bồ-tát giới, rồi đến học thiền pháp với Pháp Dung trên núi Ngưu Đầu. Năm sau lại đến học tập Mật giáo với a-xà-lê Thuận Hiểu ở chùa Linh Nham, rồi thọ quán đỉnh Mật giáo. Đầu năm Thiên Hựu thời Đường, pháp môn mà sư đã học, nghiêng về bốn tông: Thiên thai tông, Chân ngôn tông, Thiền tông, Giới luật tông, nên gọi là “Tứ tông tương thừa”.

Sư về nước năm 805, ở núi Hiei, khai sáng Thiên Thai tông Nhật Bản, viết cuốn Đường quyết tập (唐诀集), Thủ hộ quốc giới chương (守护国界章), cuộc đời viết hơn 280 bản văn, sau khi viên tịch được vua phong thụy là “Truyền Giáo đại sư”. Trong số đệ tử của sư, có Viên NhânViên Trân cũng nối tiếp đến triều Đường cầu pháp, sau khi về nước, đã hoằng truyền rạng rỡ giáo nghĩa Thiên ThaiChân Ngôn tông, thúc đẩy Thiên Thai tông phát triển mau chóng ở Nhật Bản, đến nay vẫn thịnh không suy.     

Chân Ngôn tông: do không Hải sáng lập. Năm 804, Không Hải (774~835) đi cùng Tối Trừng theo sứ thần đến triều Đường, đến ở chùa Thanh Long trong thành Trường An, lạy a-xà-lê Huệ Quả làm thầy, được nhận hai bộ “Đại mạn-đà-la bí Mật pháp”, và được vị a-xà-lê truyền quán đỉnh, đồng thời còn ưa học ‘Tất đàm’ với tam tạng Bát-nhã. Năm Chí Đức thời Đường, sư mang về nước hơn 100 điển tịch nội điểnngoại điển, hoằng truyền rạng rỡ Mật giáo, được triều đình tôn sùng.

Sư khai sáng Chân Ngôn tông, mở mang đạo tràng căn bản trên núi Koya, viên tịch năm 835, vua sắc thụy hiệu “Hoằng Pháp đại sư”. Sư viết Bí mật mạn-đà-la giáo phú pháp truyện (秘密曼茶罗教付法传), Biện hiển mật nhị giáo luận (辨显密二教论), cuộc đời sư viết hơn 150 bản. Sư có các đệ tử như Thưởng Hiểu, Viên Hạnh cũng nối gót đến đất Hán cầu pháp, sau khi về nước, hoằng truyền sở học, nên mang tác dụng rộng lớn trong việc phát triển Chân ngôn tông Nhật Bản

Như trên đã trình bày, thời kì Nara và Heian là sơ truyền và giai đoạn hấp thu của Phật giáo Nhật Bản, trước sau thành lập các tông phái lớn đều trực tiếp hoặc gián tiếp do từ Trung Quốc truyền nhập, còn về giáo nghĩa thì kế thừa từ Phật giáo Trung Quốc mà không có đột phá mới. Tồn tạilưu truyền của các tông phái này, một mạch được xem là tư tưởng văn hóa mang tính chỉ đạo một dạng chính trị, tiếp nhận từ việc bảo vệ đất nước và quý tộc, rõ ràng có đủ tính quý tộc, nhưng không có nền tảng dân chúng. 

Tông phái mới được hưng khởi thời kì Kamakura: Thời kìKamakura, Phật giáo bắt đầu kết hợp với tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, rồi gặt hái được phát triển mới, tiếp tục hưng khởi Tịnh độ tông, Chân tông, Nhật Liên tôngThiền tông mang đầy đủ đặc thù dân tộc Nhật Bảntiếp tục hưng khởi. Những tông phái này, đều hướng đến việc truyền giáo cho dân chúng làm trọng điểm, trên giáo nghĩa thì xây dựng một hệ thống lý luận ách yếu gọn rõ để dân chúng dễ tiếp thu, chú trọng tư tưởng tín ngưỡng, từ đó phát triển nhanh chóng, nên gọi là “Kamakura tân Phật giáo” (鎌仓新佛教) hoặc “Nhật Bản Phật giáo (日本佛教).

Tịnh Độ tông: Pháp Nhiên (pháp danh Nguyên Không) là người sáng lập Tịnh Độ tông Nhật Bản. Pháp Nhiên (1133~1212), năm 13 tuổi lên núi Hiei xuất gia, theo a-xà-lê Hoàng Viên để học tập, nghiên cứu về huyền chỉ nhị môn: giáo, quán. Sau đó đến học hỏi các danh tăng, nghiêng về nghiên cứu Phật giáo, người thời đó gọi Pháp Nhiên là: “Tọa chủ Pháp Nhiên trí tuệ đệ nhất” (智慧第一法然座主). Từ lúc sư đọc đến đoạn “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà” trong cuốn Quán kinh tán thiện nghĩa (观经散善义) của ngài Thiện ĐạoTrung Quốc, mà có nhiều sở ngộ.

Năm 1175, sư khai sáng Tịnh Độ tông Nhật Bản “Nhất hướng chuyên tu tông”. Sư chưa từng đến Trung Quốc, nhưng lập tông khai giáo của sư được kế thừa tư tưởng Tịnh độ của ngài Thiện Đạo thời Đường Trung Quốc. Thông qua phán giáo của hệ thống, có thể thấy được ngoài các tông phái ra, còn sáng lập các hệ phái độc lập. Sau đại sư Không Hải sáng lập Chân Ngôn tông, có thể nói sư là người số một.

Sư viết cuốn Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập (选择本愿念佛集), luận thuật tôn chỉ của việc sáng lập Tịnh Độ tông, và công khai tuyên ngôn “Ta dựa vào bậc thầy Thiện Đạo, mà khai sáng Tịnh độ tông”. Sư chỉ định Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, A-di-đà kinhVãng sanh tịnh độ luận của ngài Thiên Thân là “Tịnh độ tam kinh nhất luận” để thành lập giáo nghĩa tịnh độ, chủ trương “xưng danh niệm Phật” liền  có thể vãng sanh Tây phương. Tịnh Độ tông sau đó phân ra hai phái lớn là: Trấn Tây phái, Tây Sơn phái. Sư có rất nhiều đệ tử, trong đó Thân Loanđệ tử rất nổi tiếng.     

Tịnh độ Chân tông:gọi tắt là Chân tông, do đệ tử của Pháp NhiênThân Loan sáng lập. Thân Loan (1173~1262) người Kyōto, xuất thân quý tộc, mẹ mất sớm từ nhỏ, sau  đến xuất gia với tăng chánh Viên Từ ở Thanh Liên viện, rồi có là pháp danh Phạm Yến, ở núi Hiei 10 năm, còn đến Nara để nghiên cứu tham học với luận sư các tông như Tam luận, Pháp tướng. Sau đó nghe Pháp Nhiên tuyên dương pháp môn dễ thực hành niệm Phật, sư lập tức đến thảo am Cát Thủy lạy xin Pháp Nhiên truyền dạy, và đổi tên là Xước Không. Lúc 31 tuổi, sư kết hôn với con gái quý của Kujō Kanezane, trở thành tăng sĩ có vợ đầu tiên ở Nhật Bản, cũng là bắt đầu cho quan hệ phát sinh giữa Chân tôngquý tộc.

Sau đó do từ việc phát sinh hai tăng sĩ: Trụ Liên, An Lạc phạm giới xuất giadâm dục với cung nữ, dẫn đến sư và họ bị đuổi khỏi, bị lưu đày đến Echigo (nay là Niigata), rồi sư tự xưng là “Ngu Thốc Thân Loan” (愚秃亲鸾). 5 năm sau thì gặp lúc Pháp Nhiên viên tịch, sư chuyển tới Tōhoku Nhật Bản để truyền giáo, rồi lấy họ là Ngu Thốc, chính thức đổi tên là Thân Loan. Sư viết bộ Giáo hạnh tín chứng văn loại (教行信证文类) gồm 6 quyển, là giáo điển căn bản để lập giáo khai tông. Sư nhấn mạnh ‘người ác’ cũng có thể vãng sanh Tây phương, dẫn đến dân chúng ưa chuộng. Chân tông về sau phát sinh rất nhiều hệ phái, chùa Hongan-ji và Otani phái rất có ảnh hưởng.  

Nhật Liên tông:còn gọi là Pháp Hoa tông, do Nhật Liên sáng lập. Nhật Liên xuất gia năm 16 tuổi, đạo hiệu là Thánh Phòng Liên Trưởng. Nhật Liên trước sau tới học tập ở các nơi như Kamakura, Kyōto, Nara, Cao Dã. Năm 1253, sư ở chùa Thanh Trừng sáng lập Nhật Liên tông. Chủ trương lấy Pháp Hoa kinh làm kinh điển dựa vào chính yếu, tuyên dương công đức theo Pháp Hoa kinh, chỉ có tuyên thuyết đề mục Pháp Hoa kinh và xướng niệm “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa kinh”, mới có thể cứu vớt chúng sanh, nên lần lượt ảnh hưởng nhiều trong xã hội dân chúng.

Sư viết cuốn Lập chánh an quốc luận (立正安国论), ra sức bài bác công kích các tông phái như: Tịnh độ, Thiền, Chân Ngôn. Sư nhiều lần dâng sớ lên triều đình Mạc phủ Tokugawa, thỉnh cầu ngăn cấm, sau đó bị phải Mạc phủ Tokugawa phán xét sư mang “Tội cuồng ngôn mê hoặc người”, nên sư nhiều lần bị lưu đày. Từ thế kỷ XIX về sau, trong Nhật Liên tông phát sinh ra nhiều tông phái mới hưng thịnh, như sáng lập Hội Soka Gakka, hội Risshō Kōsei Kai, hội Linh Hữu, đều thuộc ba chi phái hệ Nhật Liên tông. Những hệ phái thịnh hành mới này, đến nay chiếm hữu thế lực khá mạnh trong xã hội Nhật Bản.    

Thiền tông:Thiền tông Nhật Bản chia ra: Lâm Tế tôngTào Động tông, hai chi phái lớn đại khái như hệ thống Thiền tông Trung Hoa. Lâm Tế tông do tăng sĩ Nhật Bản Vinh Tây truyền nhập, Tào Động tông do tăng sĩ Nhật Bản Đạo Nguyên truyền nhập. Vinh Tây (1141~1215) từ năm 1168 và năm 1186 đã hai lần đến triều Tống, rồi tham học với các Thiền sư ở trên các ngọn núi Thiên Thai, Lư Sơn, Dục Vương, Thiên Đồng, sau đó đến ở chùa Vạn Niên trên núi Thiên Thai, yết kiến Thiền sư Hư Am, được truyền tâm ấn Lâm Tế, còn trao giấy chứng nhận và y cụ làm ấn tín.

Sau sư về nước thì lập hai chùa, phát triển sáng soi thiền học, đồ chúng tập trung, chủ trương ‘khán thoại thiền’, viết cuốn Hưng Thiền hộ quốc luận (兴禅护国论), cuộc đời sư viết 9 quyển, 7 bộ, trở thành tông phái mới Lâm Tế tông Nhật Bản. Lâm Tế tông hiện nay còn chia ra 15 hệ phái, Diệu Tâm tự pháiKiến Trường tự phái là có ảnh hưởng rất lớn.

Đạo Nguyênđệ tử do Vinh Tây truyền lại, cũng đến triều Tống vào năm 1233, trải qua tham học các Thiền sư ở trên các núi Thiên Đồng, Thiên Thai, Kinh sơn, sau đó được Thiền sư Như Tịnh ở chùa Cảnh Đức trên núi Thiên Đồng chỉ điểm bèn hoát nhiên khai ngộ, được ấn chứng, thọ truyền bí ẩn và tấm ảnh y cụ, về nước năm 1227, lập chùa Vĩnh Bình trên núi Tản Tùng, hoằng rạng rỡ thiền học, nhấn mạnh tu ‘mặc chiếu thiền’, đề xướng không “Cứ việc ngồi thiền, tức tâm là Phật”, viết cuốn Chánh pháp nhãn tạng (正法眼藏), cuộc đời sư viết 118 quyển, 9 bộ sách, xiển dương tôn chỉ Tào Động, sáng lập Tào Động tông Nhật Bản.    

Thiền sư Ẩn Nguyên thời Minh qua Nhật Bản khai sáng Hoàng Bá tông, và cùng với Lâm Tế, Tào Động mà lập thế chân vạc thành ba, tông phong đại khái tương đồng với Lâm Tế, cũng có xướng tụng, pháp thức âm thanh lời kinh, cũng có thay đổi quy cách phong thái, lúc đó trong chùa khích lệ sôi nỗi phong trào học vấn, cơ cấu giáo dục học vấn và nghĩa học các tông phái cũng theo thời cuộc mà phát triển. Hoạt động giáo dục rầm rộ, nhân tài xuất hiện rất nhiều trong các tông phái. Phật giáo Nhật Bản lần lượt hình thành: quốc gia hóa, xã hội hóa, gia đình hóa, chia rõ tông pháihiện đại học thuật hóa, dẫn đến đặc chất Phật giáo liên quan mật thiết đến đất nước và dân chúng.   

Bản văn trích lục từ tạp chí “Pháp âm”    

***

Tiến sĩ triết học Hà Yên Sinh (1962~?), Giáo sư tôn giáo học Đại học Women's Kōriyama (Koriyama Women's University) Nhật Bản. Lĩnh vực nghiên cứu của ông là tỉ giảo tôn giáo học, đối thoại tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo, sử tư tưởng Phật giáo, thiền học Đông Á; soạn viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Nhật Bản và tiếng Hán. Giới nghiên cứu Phật giáoTrung QuốcÂu Mỹ đánh giá ông là “Một vị học giả Phật giáo nổi tiếng có đủ tiêu chuẩn quốc tế” (theo Học viện triết học đại học Vũ Hán)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7674)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8785)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7084)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9303)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8745)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10206)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8170)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9513)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6917)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7964)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8341)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8620)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8369)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8485)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11233)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8537)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10669)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9434)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9216)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9534)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10305)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16160)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19135)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8653)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8007)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24114)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9364)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7619)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10512)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17660)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6920)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8848)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12322)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7664)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14551)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8210)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7768)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8824)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14777)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9245)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12299)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8480)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14477)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12435)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8382)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10117)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7731)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 15992)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8186)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8244)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7841)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11146)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9112)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9247)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8374)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7527)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7976)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8778)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9281)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11433)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant