Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mục Tiêu Của Đạo Phật Là Gì?

06 Tháng Tám 201805:06(Xem: 5582)
Mục Tiêu Của Đạo Phật Là Gì?

Mục Tiêu Của Đạo Phật Là Gì?

Thích Nữ Hằng Như

dao phat

 

          Nhưng tu như thế nào để đạt được mục tiêu cao quý đó? Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộ và giải thoát. Cho nên, những ai lập chíxuất gia đều có chung một sở nguyện là mong được thoát khổ, giác ngộ và giải thoát.

          Nhiều người nghĩ đơn giản tu tập theo đạo Phật là giữ giớiăn chay, làm việc lành tránh việc dữ, thực hành hạnh bố thí, giúp đỡ người nghèo khổ bất hạnh, góp tiền của xây chùa, ấn tống kinh sách v.v... là đang trên con đường tiến tớigiải thoátThực ra, đây chỉ là bước đầu của người Phật tửtập sống lương thiệnđạo đứctrải lòng từ bi với mọi ngườimọi loài. Những hành động bố thí giúp đỡ này giúp cho người Phật tử dần dần dẹp bớt tham sân si, bỏ bớt lòng ích kỷtâm thức mở rộng khiến cho cuộc sống hiện tại của họ được an vui hạnh phúc. Những việc làm tốt đẹp này sẽ kết thành nghiệp thiện lành và người ấy sẽ được hưởng sự may mắn nào đó trong đời sống hiện tại, hoặc hưởng phước báutrong đời sống vị lai. Nhưng nếu nói những việc làm tốt đẹpnày sẽ giúp họ được giải thoát thì cần phải xét lại!

          Tu giải thoát với ý nghĩa là tu bây giờ để được kết quảsau khi chết sẽ không bị tái sanh vào ba cõi sáu đường, mà tái sanh theo nguyện lực để giáo hoáchúng sanh hoặc sẽ nhập vào trạng thái Vô Dư Niết Bàn.

          Tu giải thoát còn mang ý nghĩa là chúng ta hành trì tu tập để được giải thoát ngay trong đờisống hiện tại này. Nghĩa là Tâm chúng ta không dính mắc với những đam mê vật chất, không dính mắc với những tri kiến thế gian, không đắm chìm trong hạnh phúc dục lạc cũng không bị phiền nãovây bủa. Nếu Tâm của chúng ta hoàn toàn không bị trói buộc với bất cứ vui buồn hạnh phúc khổ đau của thế gian thì Tâm được giải thoát, tức là tuy còn sống trong đời sống nhiểu nhương, mà Tâm thì vẫn an nhiên tự tại trong trạng thái Hữu Dư Niết Bàn.

 

THOÁT KHỔ, GIÁC NGỘGIẢI THOÁT

          Muốn thoát khổ, giác ngộgiải thoát, trước hết chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của nhóm từ này.

          1. THOÁT KHỔ:  "Thoát" là "vượt qua" một giới hạn nào đó để đạt được trạng thái hoàn toàntự doThí dụVượt qua cơn bệnh ngặt nghèo nhờ chửa trị trúng thuốc. Vượt qua nghĩa là thoát khỏiGiới hạn ở đây là bệnh tật. Trạng thái tự do tức là hết bệnh. Trị đúng thuốc tức là phương pháp tu tập thích hợp với căn cơ của mình. Còn khổ, tạm định nghĩa là trạng thái Thân và Tâm không được hài hoà. Cả hai bị xung đột, bị trói buộc vào những điều bất như ý. Thoát khổ là đượcgiải phóng ra khỏi những phiền não trói buộc Thân Tâm mình.

          Con người gồm hai phần Thân và Tâm. Cho nên bàn đến khổ thì chúng ta phải biết rằng Thân có cái khổ của Thân và Tâm có nỗi khổ của Tâm. Thân bị bệnh hành hạ thì Thân khổ. Tâmbực bội khó chịu thì Tâm khổĐau khổ là căn bệnh của Thân. Sầu ưu, phiền não là căn bệnh của Tâm. Nếu Tâm bệnh mà không lo trị liệu thì sớm muộn gì Thân cũng bị bệnh theo. Ngược lại Thân đau ốm triền miên cũng khiến cho Tâm vì chịu đựng mà phải buồn rầu chán nãn, thì đó chính là nỗi khổ của Tâm. Như vậy cả Tâm và Thân tương tác qua lại tạo thành những mối khổ triền miên chocon người.

          Trong kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng Bộ Kinh S.v, 420), Đức Phật nêu lên các tướng trạng về Khổ như: "... Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khồ, sầu, bi, ưu, não là khổ, oángặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ". Năm thủ uẩn là khổ có nghĩa là: "Chấp ngũ uẩn có thật, cho đó là Ta, thuộc về Ta, là tự ngã của Ta, thì đó là khổ". Tại sao thế? Đó là vì chấp "Ta" có thật nên mong muốn đủ mọi thứ để phục vụ cho cái "Ta",hay nói đúng hơn là phục vụ những cảm giác của giác quan. Nặng nề nhất là Khát áiKhát ái haytham dục là lòng khao khát thèm muốn tiền bạc, sắc dụcquyền lợidanh vọngđịa vị trên thế gianmà cái "Ta" không bao giờ biết đủ. Trong quá trình tranh đấu để đạt điều mong muốn, cái "Ta" nàyva chạmtranh chấp với những cái "Ta" của kẻ khác cho nên khổ mình mà cũng khổ người. Ở cấp độ cá nhân thì cái "Ta" tự xung đột, tự lo lắng, tự phiền não... tự mình gây khổ cho mình. Ở cấp độ thế giới thì xảy ra chiến tranh, gây thảm cảnh chết chốc lan tràn khắp nơi khiến nhiều người chịu khổ.

          Đức Phật dạy tất cả hiện tượng trên thế gian này đều vô thường biến đổi, cho nên dù những điều mà cái "Ta" mong muốn, nếu may mắn đạt được, thì cũng sẽ có lúc mất đi, giống như nắm nước trong tay không giữ mãi được, nước sẽ vuột mất khỏi bàn tay không còn một giọt, thì nỗi khổ lại tràn đến. Thân khổ thì nước mắt trào ra, tim đập mạnh, bao tử co thắt, tay chân rả rời, đầu cổ đau nhức... Còn Tâm khổ thì buồn rầuchán nãn, oán hờn, thù nghịch, trầm cảm, có khi muốn chết phứt đi cho rồi!

          Nói chung ý niệm khổ được thành lập là do những xung đột bên trong Tâm. Vì lòng ích kỷtham tham vô bờ, nên không bao giờ cái "Ta" chấp nhận hay bằng lòng với những gì đang có. Mộtlý do khác nữa là bên dưới Tâm Phàm Phu này luôn tiềm tàng lậu hoặctập khí, nói chính xác hơn đó là những đam mê ghiền nghiện, những lục dục thất tình, những tham muốn vô độ, không thể từ bỏ được. Ai sống với Tâm này luôn tự làm khổ người và khổ mình mà thôi!

 

          2. GIÁC NGỘ: Tiếng Pàli và Sanskrit đều là Bodhi (Bồ Đề). Tiếng Anh là "enlightenment" hay "awakening",  có nghĩa là "thức tỉnh" hay "sự bừng sáng" thường được dịch là giác ngộ. Đây làtrạng thái Tâm của người tu tập đã thoát khỏi vô minh, đã nhận thức được tận cùng bản thể của chính mình và bản thể của vạn vậtGiác ngộ trong đạo Phật là trạng thái Tâm đoạn tận lậuhoặc/tập khí, kiết sửtuỳ miên, không còn bị tham ái, sân, si... khống chế. Con người giác ngộsống thanh thảnhoàn toàn tự do, không còn vướng vào vòng sinh tử nữa. Các bậc Thánh thườngmô tả trạng thái giác ngộ như là: "Tâm định tĩnh, an lạcthanh thản, vô sự, ngoài lý luận...".

          Giác ngộ đặt trên cơ sở tỉnh ngộTỉnh ngộ nhận ra điều gì đó, rồi quyết tâm dấn thân, bằng những phương tiện thích hợp với căn cơ của mình để phát triển trí tuệ tâm linh. Còn giác ngộ là nhờ hành trì thiền Định mà trí tuệ tâm linh bừng sáng.

          Như vậy phải có Pháp thực hành mới bật ra giác ngộ.      

          Thí dụ: Như Thái Tử Sỹ-Đạt-Ta tỉnh ngộ rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ để ra đicầu đạoTỉnh ngộ mới quyết tâm ra đi tìm phương pháp tu tập để thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Suốtthời gian dài 6 năm không gặp Pháp thù thắng nên Ngài chưa đạt thượng trí, chưa giác ngộ. Ngài phải rời bỏ những Pháp này để đi tìm Pháp khác. Cho nên phải có Pháp tu đúng mới có thể đi đếngiác ngộGiác ngộ tức Phật tánh bừng sáng lên, soi sáng những điều mà trước đây vì vô minh che phủ nên không thấy không hiểu.

 

          3. GIẢI THOÁT: Đây là mức độ thiền Định mà các vị Phật, A-La-Hán đã chứng được, thoát ra khỏi luân hồi sinh tử, tuỳ hỷ đến đi trong lục đạo để gieo duyên cùng chúng sanh.

          Giải là gở ra, tháo ra, trừ bỏ những điều gì đó. Thoát là vượt quaGiải thoát trong đạo Phậtcó nghĩa là từ lâu Tâm thức bị trói buộc, bị dính mắc với đủ thứ thành kiếnthiên kiếnđịnh kiến, đủ thứ chấp thủ, đủ thứ tham lamngu si, giận hờn... bây giờ được thiện tri thức có trí tuệ khai mở, giúp giải trừ được những gút mắt đó nên Tâm được giải thoát khỏi những dính mắc nêu trên. Thông thường giải thoát trong nhà Phật có hai nghĩa:

          1) Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi tức chấm dứt tái sanh: Muốn vậy phải tu tập để đào thảitận gốc tập khílậu hoặcNếu không thì lúc lâm chungcận tử nghiệp sẽ trồi lên, khiến người chết theo cận tử nghiệp tái sanh để trả quả xấu hay hưởng quả tốt trong kiếp sống vừa qua. Nếu chấm dứt tái sanh là được giải thoát.

          2) Khi còn sống đạt được "Hữu Dư Niết Bàn", khi chết đạt "Vô Dư Niết Bàn": Đạt "Hữu Dư Niết Bàn" là trong lúc còn sống ở thế gian này Thân được lành mạnhTâm không dính mắc bất cứđam mê nào. Sáu căn hoàn toàn thanh tịnh khi tiếp xúc với các trần cảnh. Muốn kinh nghiệm sự giải thoát này, đầu tiên ý nghĩlời nói hay hành động phải được thanh tịnhBa nghiệp thanh tịnh thì không tạo nghiệp, dù là nghiệp tốt hay nghiệp xấu. Chỗ này chính là chỗ mà nghiệp hoàn toànthanh tịnh hay còn gọi là nghiệp giải thoátNgoài ra với Tâm định tĩnh sáng suốttiềm năng giác ngộ sẽ bật sáng, tự nó kiến giải những điều mới lạ mà hành giả chưa bao giờ biết tới. Bấy giờ hành giả đạt được trạng thái Niết Bàn ngay trong đời sống, Phật Giáo Nguyên Thuỷ gọi là "Hữu Dư Niết Bàn", và khi bỏ xác phàm thì thể nhập vào "Vô Dư Niết Bàn".

 

 

TỈNH NGỘ LÀ NỀN TẢNG CỦA GIÁC NGỘ

          Giá trị bài Pháp đầu tiên của Đức Phật rất quan trọng đó là tỉnh ngộTrong đời tu, hành giảcó thể tỉnh ngộ nhiều lần. Có tỉnh ngộ hành giả mới xác định hướng đi của mình. Lúc bấy giờ tạm nói Trí Năng đã tỉnh ngộ nên không còn vẽ vờisuy luận về những tín hiệu của Ý Căn và Ý Thứcđưa ra, mà chỉ hướng tâm đến mục đích cao thượng là tu tập để chuyển hoá nhận thứcchuyển hoá nghiệp hầu sớm được thoát khổ, giác ngộgiải thoát.

          Trong "Tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật", chúng ta ghi nhận Đức Phật đã nhiều lần tỉnh ngộ.

          - Tỉnh ngộ đầu tiên: Khi Đức Phật còn là Thái tử, Ngài nhận thấy sinh, già, bệnh, chết là quy luật khách quan đã, đang và sẽ khống chế con người, nên Ngài quyết định thoát ly khỏi gia đìnhđể đi tìm một phương pháp tu tập hầu thoát ra khỏi sự khống chế của bốn nỗi khổ đó.

          Tỉnh ngộ thứ hai: Đức Phật từ giả hai vị Thầy Àlàra Kàlama và Uddakka Ramàputta đã dạy cho Ngài bốn tầng thiền Vô sắc, đó là: Không Vô Biên XứThức Vô Biên XứVô Sở Hữu XứPhi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ,  nhưng Pháp này đã không giúp Ngài kinh nghiệm được thượng trí,không giải quyết được bài toán đi tìm cái Vô sanh của Ngài nên Ngài xin phép ra đi.

          Tỉnh ngộ lần thứ ba: Tu khổ hạnh đói khát suýt chết, cũng không kinh nghiệm được Niết Bàn. Một hôm Ngài té xỉu ngay bìa rừng, may nhờ có một mục nữ chăn cừu cúng dường bát sữa, lay Ngài tỉnh dậy. Lúc đó, Ngài ngộ ra rằng phải có thân khoẻ mạnh để tâm nương vào thân mà tu. Thế là Ngài từ bỏ pháp tu khổ hạnhquyết định ăn uống trở lại để giữ thân mà tu. Bấy giờ Bồ Tátkhông có Pháp gì để hành trì, Ngài nhớ lại Pháp Thở đã có lần kinh nghiệm "nhập định" khi theo vua Tịnh Phạn làm lễ hạ điền lúc còn nhỏ. Ngài quyết định áp dụng Pháp Thở qua bốn tiến trình Biết: Từ Biết Có Lời chuyển qua Biết Không Lời, Thầm Nhận BiếtTỉnh Thức Biết và Nhận ThứcBiết. Sau 49 ngày đêm toạ thiền, Ngài đã Giác ngộ nhận ra mình đã hoàn toàn sạch hết lậu hoặc,chứng quả Abhisamaya tức quả vị A-La-Hán.

          Qua những lần tỉnh ngộ như trên của Đức Phậtchúng ta nhận thấy tỉnh ngộ là bước ngoặc rất quan trọng. Nhờ có tỉnh ngộchúng ta mới lo tu tậpban đầu học tập để có tuệ triTuệ tri là sựhiểu biếtnhận ra, ngộ ra những lời dạy của Đức Phật. Sau đó hành trì để thể nhập những lời dạy của Đức Phật vào đời sống hằng ngày trên Thân và Tâm của chúng taGiác ngộ chính là sự hiểu biết chứng ngộ của riêng chúng ta qua thiền Định.

 

NHỮNG MỨC CHỨNG NGỘ TRONG THIỀN PHẬT GIÁO

          Giác ngộ có nhiều mức độ. Hành giả tu tập sẽ có dịp kinh nghiệm tiểu ngộ nhiều lần rồi mớiđại ngộ. Mức độ đầu tiên là:

          Tỉnh ngộ (Pabodhana/Awakening): Tỉnh ngộ là chức năng của vùng tiền trán, Trí Năngkhông còn là công cụ của Ý CănÝ Thức mà trở thành ông chủ của hai tâm này. Tạm gọi là Trí năng tỉnh ngộ, không còn suy luận suy đoánvẽ vời nữa, mà nó học hỏi hướng thượng: Thấy, nghe, đọc kinh sách. Quyết tâm tìm tòi, học tập để biết nguyên nhân của cái Khổ rồi tu tập để diệt Khổ.

          Hành giả xử dụng Trí năng để học những giáo lý quan trọng mà Đức Phật dạy cho các đệ tửcủa Ngài là Bài kinh Chuyển Pháp Luân gồm kinh Tứ Diệu Đế và kinh Vô Ngã Tướng.

          Kinh Tứ Diệu ĐếĐức Phật đã chỉ rõ: Đây là Khổ Đế, Đây là Tập Đế, Đây là Diệt Đế và Đây là Đạo Đế.

          Muốn thoát khổ, Phật dạy chúng ta phải quán chiếu tìm nguyên nhân gây ra khổ. Biếtnguyên nhân gây ra khổ rồi, chúng ta phải diệt nó đi. Khi hết khổ là lúc chúng ta an trú trong Niết BànPhương pháp để Diệt Khổ là Đạo ĐếĐạo Đế gồm tám chi để chúng ta hành trì tu tập. Đó là:Chánh KiếnChánh Tư DuyChánh NgữChánh NghiệpChánh MạngChánh Tinh TấnChánh NiệmChánh ĐịnhThực hành tới nơi tới chốn Bát Chánh Đạo thì hành giả kinh nghiệm trạng tháigiác ngộGiác ngộ rồi thì làm gì còn khổ nữa. Hết khổ thì giải thoát.

          Bài Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật dạy con người gồm hai phần Danh và Sắc tức Thân và Tâm. Thân là vật chất gồm các giác quan, não bộ và nội tạng. Tâm gồm các yếu tố hợp thành là: Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Từ bài Kinh này mà chúng ta sẽ nhận ra định luật khách quan của hiện tượng thế gian là: Vô thường, Khổ, Vô Ngã, gọi chung là Tam Pháp Ấn. Qua Tam Pháp ẤnĐức Phật nhắc nhở chúng ta không nên bám víu, chấp Thân Tâm này là thường hằng, vì cả hai khôngthực chất tính nên nó Vô NgãNhận ra được điều này và thể nhập được điều này vào đời sốnghiện tại thì Thân Tâm sẽ không bị trói buộc vào khái niệm "Ngã" là có thật, là thường hằng. Vì thế, khi Thân ốm đau hay cuối cùng nó chết đi chúng ta chấp nhận mà không tiếc nuối đau khổ.

          Giai đoạn này tuy đã tỉnh ngộ nhưng vẫn còn xử dụng Biết Có Lời nên trong đầu vẫn còn Tầm vàTứ.

          - Ngộ hay chứng ngộ : Tiếng Phạn là "Sacchikaroti"tiếng Anh là "to realized". Nghĩa là "nhận ra" hoặc "hiểu biết" điều gì đó qua phản xạ giác quan, nghĩa là khi giác quan tiếp xúc đối tượng, Tâm hoàn toàn yên lặng, chỉ một niệm Biết không lời về cái đang là của đối tượng. Niệm Biết này kích thích vào 3 Tánh: Tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm tạo ra phản xạ giác quan là chất xúc tác làm tuệ trí bật ra kiến giải điều mình từng thắc mắc thì đó là ngộ hay chứng ngộ.

          Một cách khác, khi Trí năng suy nghĩ vấn đề gì mà bị bế tắt. Một điều kiện bên ngoài tác động vào một trong ba Tánh thì Tánh Giác bật ra kiến giải. Điều mình hiểu biết từ sự kiến giải của Tánh giác là chứng ngộ.

          Đốn ngộ hay triệt ngộ (khippàbhinnà): Triệt ngộ qua 4 Tánh, nghĩa là hành giả nghe giảng Pháp ngay trong lúc ở trong Định, ngộ liền tức khắc chứng quả A-La-Hán, không còn vi tế lậu hoặc, như câu chuyện ngộ đạo ông Bahiyà và Lục Tổ Huệ Năng. Các Ngài đã ngộ từ (niệm/nghe) bằng Tánh Nghe. Tánh Nghe đi thẳng vào Tánh Nhận Thức, hai vị này ngộ liền tức khắc. Ngộ này gọi làđốn ngộ hay triệt ngộ.

          - Abhisamaya (A-La-Hán): Bồ Tát Cồ Đàm sau bốn tuần toạ thiền đã lần lượt chứng sơ thiềnnhị thiềntam thiền và tứ thiền. Ngày cuối cùng của tuần lễ tứ thiền, Ngài chứng ngộ ba minh: Túc mạng minhThiên nhãn minhLậu tận minhhoàn toàn sạch lậu hoặc, Ngài an trú trong Tâm Tathà (Tâm Như). Kinh ghi Bồ Tát "chứng ngộ hoàn toàn" gọi là  "Abhisamaya" tức quả vị A-La-Hán, là quả vị cao nhất trong thiền Phật giáo lúc bấy giờ.

          - Anuttara-Sammà-Sambodhi (Chánh đẳng chánh giácquả vị Phật): Tuần lễ thứ bảy Bồ Tátchứng ngộ Pháp Tánh (Idappaccayatà) và Pháp Giới Tánh (Tathatà của hiện tượng thế gian) được tôn xưng là vị Phật lịch sử.

 

TÂM SINH DIỆT VÀ TÂM GIẢI THOÁT

          Trong kinh Lăng NghiêmĐức Phật chia Tâm làm hai loại. Đó là Vọng Tâm và Chân Tâm. Tâm là cái Biết. Cái Biết cũng có hai loại: Biết có lời, là cái Biết của Vọng Tâm. Biết không lời là cái Biết của Chân Tâm.  

          Ngày xưa Đức Phật thành đạo qua pháp tu thiền Định. Vì thế nếu hành giả muốn tu "GiácNgộ Giải Thoát", thì sau khi Quán chiếu kinh điển hay những lời Phật dạy, thì hành giả cũng phảitu thiền Định để kinh nghiệm những giáo lý đó trên Thân và Tâm của mình hầu phát huy trí huệ tâm linh tức giác ngộ.

          Nguyên tắc tu tập là huấn luyện tế bào não từ quán tính lăng xăng dao động do suy nghĩ, xúc cảm, buồn, vui, đau khổ là trạng thái của Vọng Tâm còn gọi là Tâm Sinh Diệttrở thành quán tính yên lặng. Tâm yên lặng khi giác quan tiếp xúc đối tượng, thấy, nghe, xúc chạm... biết như thậtvề đối tượng mà Tâm không dao động bởi sự phân biệt so sánh khen chê, ưa ghét. Tâm biết như thật về mọi vật, đó là Chân TâmChân Tâm là Tâm giải thoát không còn phiền não khổ đau.

 

KẾT LUẬN

          Cuối cùng, muốn đạt mục tiêu "Thoát Khổ, Giác Ngộ, Giải Thoát", thì phải tu tập thế nào cho Tâm luôn được thanh tịnh sáng suốtĐức Phật thì nói rằng Tâm "hoàn toàn sạch lậu hoặc" là giải thoátPhật Giáo Nguyên Thuỷ đòi hỏi Tâm này "không còn tham sân si" thì sẽ chứng quả A-La-Hán.  Phật giáo Phát Triển nói Tâm này là "tự ngã thanh tịnh" để chỉ Chân Tâm là Tâm Bậc Thánh, còn "tự ngã thanh tịnh tuyệt đối" để chỉ Tâm Phật.

          Trên đây Phật và chư vị Tổ chỉ mượn lời khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa, để diễn tả cái chỗ không lời là chỗ yên lặng tuyệt đối. Như vậy cốt lõi của con đường tâm linh đi từ Tâm Phàm Phu đến Tâm Bậc Thánh hay cao hơn là Tâm Phật chính là sự thanh tịnh của Thân và Tâm. Tâm làý nghĩ, là sự tác ý. Thân là hành động và lời nói. Tất cả ba nghiệp này thanh tịnh sẽ đưa đến toàn bộ thanh tịnh. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái Tâm, từ nơi Tâm mới sinh ra những động thái khác, ngay cả việc phát huy trí huệ cũng phát xuất từ cái Tâm định tĩnh chứ không từ đâu khác. Cho nên, sự thanh tịnh của Tâm như là một ly nước được lóng sạch những chất dơ bẩn, nước trong veo thì chúng ta có thể nhìn xuyên suốt tới tận đáy ly. Cũng vậy khi Tâm hoàn toàn trong sáng, không cấu nhiễm và định tĩnh... thì chuyện gì mà chúng ta không giải quyết được.

          Tóm lạiTu Phật giúp cho Thân Tâm chúng ta được hài hòa, Tâm chúng ta được sáng suốtvà cõi lòng chúng ta luôn từ bi cởi mở. Ở bước đầu này, chúng ta cảm nhận được sự an lạc hạnhphúc và nhận thấy mọi người thân cận chúng ta cũng hài hoà vui vẻ... Bấy nhiêu đây cũng đã là quá hạnh phúc rồi, nói chi đến việc chúng ta tu tới mức Giác NgộGiải Thoát, được an trú trongHữu Dư Niết Bàn một trạng thái Tâm vượt ra ngoài nhận thức thế gian thì còn gì để nghĩ bàn nữa.

          Chúng tôi tạm dừng bài viết nơi đây. Kính chúc quý vị an vui trong đời sống của người biết đạo. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

August 03-2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6329)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5937)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4721)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5648)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5818)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6096)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6573)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5914)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7004)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6618)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4734)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4895)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7651)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9762)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7477)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5289)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6381)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5384)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5792)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6363)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5676)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6381)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7038)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6250)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10604)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6641)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6118)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6683)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6073)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6446)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5485)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8209)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5698)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7528)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6215)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9618)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4034)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6360)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4148)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4287)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4726)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5288)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5242)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5790)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6734)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5521)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4476)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5313)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4941)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4337)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6833)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4573)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8373)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7180)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8337)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7447)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7525)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6078)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9939)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7047)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant