Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khái Niệm Pháp (dharma) Trong Phật Giáo

06 Tháng Chín 201805:04(Xem: 5623)
Khái Niệm Pháp (dharma) Trong Phật Giáo
Khái Niệm Pháp (dharma) Trong Phật Giáo 

Đăng Nguyên

Khái Niệm Pháp (dharma) Trong Phật Giáo




Thuật ngữ
 pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và sự giải thích khác nhau trong quá trình phát triển tư tưởng ở Ấn ĐộPhật giáo chia sẻ thuật ngữ này và một sốý nghĩa của nó với những tôn giáo Ấn Độ khác, nhưng đồng thời nó cũng đưa ra một số giải thích riêng. Pháp có thể bao hàm nhiều nghĩa khác nhau trong những ngữ cảnh khác nhau và liên quan đến những vấn đề khác nhau. Ở đâychúng ta sẽ xem xét khái niệm này dưới hai đề mục: trước hết là pháp ở nơi nghĩa chung, bao gồm nhiều nghĩa khác nhau; và thứ hai là pháp mang tính thuật ngữ riêng, chỉ cho những thành phần hay yếu tố cuối cùng của toàn bộ thực tạihiện hữu


Sử dụng chung 

Pháp đã và vẫn đang được sử dụng bởi hầu hết các tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ để chỉ niềm tin và sự thực hành tôn giáo của họ. Nơi nghĩa này, pháp đề cập chung cho những gì chúng ta gọi là “tôn giáo”. Pháp cũng chỉ cho trật tự vũ trụ, luật tự nhiên, hay nguyên lý mà toàn thể thế giới(saṃsāra) vận hành theo chu trình của nó. Bên trong ngữ cảnh Phật giáotrật tự vũ trụ này đượcvận hành theo luật duyên khởi (pratītya-samutpāda). Luật tự nhiên này, mà nó kiểm soát chuỗi sự kiện và hành động của chúng sanh, không có khởi thủy hay người sáng tạo nên. Nó không có sự khởi đầu và những chức năng bản chất của riêng nó. Ở trong Tăng chi bộ (Aṅguttara Nikāya) vàTương ưng bộ (Saṃyutta Nikāya), và về sau được nhắc lại trong kinh Lăng-già (Laṅkāvatāra Sūtra), được nói rằng bản chất của vạn vật là luật nhân quả và luật này quyết định nên thế giới này cho dùNhư Lai (Tathāgata) có xuất hiện ở nơi cuộc đời này hay không. Đây là một luật vĩnh cửu và phổ quát mà sự có mặt của nó không phụ thuộc vào việc xuất hiện của chư Như Lai; sứ mệnh của chư Phật ở nơi cõi đời này chỉ là khai mở nó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầu tiên nhận biết và thấu hiểu luật cơ bản này và sau đó tuyên thuyết và giảng dạy nó cho những người theo Ngài. Sự khám phábản chất của pháp được so sánh trong một số bản kinh với việc phát hiện một kinh thành cũ bị bỏ quên. Trong Phật giáo Đại thừađặc biệt ở trong ngữ cảnh học thuyết Tam thân Phật (trikāya) và việc tái giải thích mối liên hệ giữa luân hồi (saṃsāra) và Niết-bàn (nirvāṇa) như là hai mặt của cùngthực tạipháp như là nguyên lý phổ quát nhận lấy một sự giải thích sâu rộng hơn. Như là một phần trong từ ghép pháp thân (dharmakāya), nó biểu thị cả thực tại siêu việt và nội tại của mọi chúng sanh và sự hiện hữu. Như vậy, nó rõ ràng biểu thị bản chất của chúng sanh cũng như bản chất của chư Phật. Ở nơi nghĩa biểu thị sự hiện hữu hiện tượng, nó cũng được đề cập như là thực tại(dharmatā: pháp tính), bản chất của thực tại (dharmadhātu: pháp giới), chân như (tathatā), tánh không (śūnyatā), hay tàng thức (ālaya-vijñāna). Nơi nghĩa đề cập đến bản chất chư Phật, nó cũng được gọi là Phật tính (buddhatā), là tự tính của chư Phật (buddhasvabhāva), hay Như Lai tạng(tathāgata-garbha). 


Pháp như là giáo pháp của Đức Phật nói chung bao gồm sự trình bày của Ngài về trật tự tự nhiênnhư được mô tả ở trên và tuyên thuyết của Ngài về con đường đưa đến giải thoát. Như vậy, khigiáo pháp của Ngài có nghĩa như một hệ thống toàn vẹn thì chính thuật ngữ pháp (hoặc śāsana) được sử dụng. Khi giáo pháp của Ngài được đề cập đến hay được giải thích từ hai góc độ khác nhau, tức là, khi khía cạnh lý thuyết và thực tiễn được phân biệt, hai thuật ngữ được sử dụng: pháp, là tập hợp những bài pháp được lưu giữ trong Kinh và Luật, hay những luật lệ và quy tắc cho việc áp dụng và thực hành pháp. Prātimokṣa bao gồm những giới luật, và mỗi trong các giới đó cũng được gọi là pháp. 

Giải thích ngắn nhất nhưng tuy vậy rõ ràng nhất về pháp như là lời dạy của Đức Phật(buddhavacana) được tóm tắt ở trong bài pháp đầu tiên của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài “vận chuyển” (tuyên thuyết) bánh xe pháp: Tứ diệu đế và Bát Thánh đạo. Có khổ đau và có nguyên nhân gây nên khổ đau, nguyên nhân đó có thể được đoạn trừ nhờ vào sự thấu hiểu và thực hànhcon đường pháp như được tóm tắt bằng Bát Thánh đạochánh kiếnchánh tư duychánh ngữ, chánh nghiệp… Sự trình bày khác về con đường này được nói rõ bên trong ba tu tập căn bản đó là giới (śīla), định (dhyāna) và tuệ (prajñā). Nhờ vào tuệ ta có được một cái nhìn trọn vẹn về pháp, nhờ vào giới ta thanh tịnh tất cả những gì làm chướng ngại cái nhìn về pháp, và nhờ vào thiền định, ta trưởng dưỡng pháp bên trong chúng ta và thực sự biến mình thành một phần của pháp. Pháp biểu thị cho sự thậthiểu biếtluân lý và bổn phận. Nó là sự thật về trạng thái và chức năngcủa thế giớisự thật về cách loại trừ những khuynh hướng xấu ác của nó, và sự thật về khả năngtinh thần không thay đổi của nó. Nó là sự hiểu biết ở trong nghĩa rằng mỗi khi ta biết pháp, ta có được sử hiểu biết mà nó thoát khỏi những trói buộc của sự hiện hữu hiện tượng. Nó là luân lý, vì nó chứa đựng một bộ hành xử đạo đức giúp ta có được sự thanh tịnh và tiến bộ tâm linh. Nó là bổn phận, bởi vì những ai nói pháp đều phải có bổn phận tuân theo những quy tắc của nó và đạt lấymục đích mà nó đặt ra. Nơi nghĩa này, chỉ có một bổn phận trong Phật giáonỗ lực không ngừng nghỉ để chứng đạt Niết-bàn. 

Pháp (Dharma), cùng với Phật (Buddha) và Tăng (Saṃgha), hình thành nên “Tam bảo” (Triratna), đối tượng mà ta phát tâm lễ bái và quy y. Ngay sau giác ngộ, khi nhận thấy rằng không có người nào toàn mãn hơn mình về phẩm hạnh, trí tuệ và thiền định để có thể cung kính noi theo, Đức PhậtThích Ca quyết định rằng Ngài sẽ sống kính trọng pháp, sự thật phổ quát mà Ngài vừa nhận chân.Tam bảo như được hiểu vào thời sơ kỳ có thể được so sánh với khái niệm Tam thân Phật về sau. Pháp là Pháp thân (dharmakāya), đại diện cho khía cạnh tuyệt đối và siêu phàm; Phật là Báo thân(saṃbhogakāya), đại diện cho trạng thái thanh tịnh và đáng được tán thán; và Tăng là Ứng thân(nirmāṇakāya), đại diện cho pháp như được khám phá và vận hành bên trong thế giới

Sử dụng ở mặt thuật ngữ riêng 

Pháp như là những yếu tố hay nguyên lý cuối cùng của sự hiện hữu như được hệ thống trong văn học A-tỳ-đàm (abhidharma), đặc biệt trong những tác phẩm A-tỳ-đàm của Nhất thiết hữu bộ(Sarvāstivāda), không được trình bày có hệ thống ở trong bốn bộ Nikāya (A-hàm). Trong những bản kinh của bốn bộ Nikāya, chúng ta thấy có nhiều sự mô tả về pháp và những phân loại khác nhau của chúng, nhưng việc hệ thống hóa của chúng vào những gì chúng ta có thể gọi “học thuyết pháp” chỉ xảy ra trong văn học A-tỳ-đàm. Như vậy, trong các Nikāya, pháp thường được miêu tảnhư là điều tốt hay xấu liên quan đến phẩm hạnh đạo đức, mà không nhận được nhiều sự quan tâm như những hệ thống siêu hình hay nhận thức luận chặt chẽ. Dasuttara Sutta liệt kê khoảng 550 pháp cần được tu tập hay đoạn trừ. Saṅgīti Sutta thậm chí đưa ra một con số lớn hơn, và Mahāparinibbāna Suttanta liệt ra 1.011 pháp. Trong Mahāparinibbāna Suttanta, chúng ta cũng thấy một tập hợp các pháp mà Đức Phật Thích Ca xác định là vì lợi ích của chúng sanh. Những pháp này bao gồm 37 Bồ-đề phần (bodhipakṣya dharma) mà nó hình thành nên 37 sự thực hành và những nguyên tắc giúp cho việc chứng đắc giác ngộ


Thay vì cung cấp thêm những trường hợp khác từ các bản kinh, bây giờ tôi sẽ tập trung vào việcmô tả học thuyết pháp của Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda). Bên trong sự trình bày có hệ thốngcủa nó, ta hầu như thấy tất cả những khía cạnh quan trọng của pháp và vai trò của chúng. Nhữnggiải thích khác nhau của các tông phái sẽ được đề cập khi nào thấy thích hợp

Phật giáo đưa ra một phát biểu dứt khoát rằng một “linh hồn” (ātman) như được giải thích bởi những tông phái phi Phật giáo ở Ấn Độ là không tồn tại. Bằng việc phủ nhận sự hiện hữu của mộtlinh hồn như là một yếu tố thường hằng và hợp nhất của một thực thể con ngườiPhật giáo đã loại bỏ mọi nền tảng cho việc khẳng định sự thường hằng của một thực thể con người hay sự hiện hữucủa bất kỳ yếu tố không thể phá hủy nào ở trong đó. Liên quan đến tính thực thể của những sự vậtvật lýPhật giáo đã loại bỏ khái niệm tự thể và thay điều đó bằng những thể thức: không có tự thể mà chỉ có sự biểu hiện của những gì chúng ta gọi là sự vật. Khi từ bỏ khái niệm về tự thể, Phật giáo đưa ra một sự giải thích về cách thế giới này vận hành. Theo sự giải thích này, vũ trụ đượcxem như một dòng chảy của các pháp, những yếu tố hay nguyên lý nhỏ nhất mà nó bao gồm, nhưng dòng chảy này không chỉ đơn thuần là một dòng chuyển động hay thay đổi rời rạc. Ngược lại, thế giới tiến hóa theo luật duyên khởi (pratītya-samutpāda). 

Dòng chảy chung này có thể được xem xét nơi ba cấp độ đồng thời và tương quan. Nếu chúng tatách riêng thế giới vô tri vô giác (thế giới vật chất), ta thấy nó trôi chảy theo một luật thay đổi đồng nhất và tự nhiênTương tựthế giới hữu cơ (thực vậttrôi chảy theo sự tiến hóa đồng điệu của đời sống tự nhiên (nảy mầm, phát triển v.v…). Cấp độ thứ ba được cấu thành bởi đời sống hữu tình. Cấp độ cuối này, ngoài việc bao gồm những cấp độ khác (vật chất và những chức năng hữu cơ), cũng bao gồm một yếu tố cảm giác (thức hay tâm). Nói chung, chúng ta có thể nói rằng nó bao gồmnhững yếu tố vật chất cũng như yếu tố phi vật chấtĐời sống hữu tình ấy, mà ở đó những yếu tố vật chất và phi vật chất được nối kết với nhautiến triển hay tuôn chảy theo luật nhân quả như được quy định ở nơi mối liên hệ duyên sinh nhân quảNgoài ra, dòng chảy tương tục của đời sốnghữu tình được sắp xếp bởi luật duyên khởi này có một luật đạo đức được đặt lên nó: luật nghiệp. 

Chính vì liên quan đến một dòng chảy như vậy mà học thuyết pháp cố gắng đưa ra một sự giải thích. Không có tự thể hay con người nhưng có các pháp (những yếu tố tâm vật lýtrôi chảy theo luật duyên khởi chịu sự tác động của luật nghiệp. Nói chung, học thuyết pháp đưa ra một sự giải thích về cách những chức năng chung bên trong ngữ cảnh của một đời sống hữu tìnhcụ thể dòng chảy một con người, vì chính đời sống con người là điều Phật giáo quan tâmHọc thuyết pháp nhưvậy không giải thích nhiều về vũ trụ là gì khi nó nỗ lực miêu tả những gì nó bao gồm và cách nó đóng chức năng. Như vậy, trong việc liệt kê chi tiết các pháp như là những yếu tố cơ bản và vô cùng nhỏ mà chúng hình thành nên vũ trụchúng ta tìm thấy một sự phân tích về đời sống con người và số phận của nó. Nhưng sự phân tích này không phải là “tâm lý học Phật giáo”, như nhiều người gọi nó; nó vừa là một sự giải thích dòng hiện tượng tương tục và không thể tránh được và vừa là khả năng đưa dòng chảy đó đến chỗ kết thúc. Bây giờ tôi sẽ mô tả một số phân loại pháp chung (lại trong A-tỳ-đàm của Nhất thiết hữu bộ). Các pháp được phân chia thành pháp có điều kiện/hữu vi (saṃskṛta) và pháp không điều kiện/vô vi (asaṃskṛta). Các pháp có điều kiện (tất cả có 72) bao gồm tất cả các yếu tố của sự hiện hữu hiện tượng (saṃsāra). Chúng được gọi là điều kiệnbởi vì bản chất của chúng và ở nơi dòng chảy của chúng, chúng tương tác với và tùy thuộc vàoluật nhân quả; chúng kết hợp và hỗ trợ trong việc tạo nên đời sống (pṛhagjana). Những pháp không điều kiện (tất cả có ba) là những pháp mà chúng không phụ thuộc vào luật mà nó chi phốisự hiện hữu hiện tượng. Các pháp cũng được phân thành những pháp bị ảnh hưởng hay bị tác động bởi những khuynh hướng tiêu cực hay những thứ ô nhiễm (āsrava; nơi nghĩa đạo đức là những nghiệp xấu), và những pháp mà chúng không bị ảnh hưởng bởi những thứ nhiễm ô(anāsrava; về phương diện đạo đức là những nghiệp thiện). 

Đây là những pháp giống như ở trong phân loại trước nhưng ở đây chúng được xem từ hai phương diện: khi chúng bị ảnh hưởng bởi vô minh (avidyā), chúng có khuynh hướng nhiễm ô; khi chúngảnh hưởng bởi trí tuệ (prajñā), chúng có khuynh hướng an tịnh. Theo bản chất của chúng, nhữngpháp không điều kiện phải được phân loại vào những pháp mà chúng không bị ảnh hưởng bởinhiễm ôChúng ta nhắc lại ở đây rằng đặc điểm chính của luân hồi (saṃsāra) là dao động, khổ (duḥkha); còn đặc điểm chính của Niết-bàn là an lạctịch diệt (nirodha). Các pháp cũng có thể được phân chia trong liên hệ đến Tứ đế. Ở đây chúng ta lại có một sự phân chia hai phần. Hai chân lý đầu (khổ [duḥkha] và nguyên nhân của nó [samudaya]) đề cập đến 72 pháp mà chúng bịảnh hưởng bởi các nhiễm ô hay đó là những pháp có điều kiện. Hai thánh đế khác (sự tịch diệt[nirodha] và con đường [mārga] đưa đến nó) đề cập đến ba pháp không điều kiện mà chúng luôntịch tịnh (nirodha) và đề cập đến những pháp mà chúng ở trên con đường (mārga) đưa đến tịch tịnh(nirodha). 
Sau khi mô tả những phân loại chung, bây giờ tôi sẽ đi đến liệt kê một bộ ba phân loại tiêu chuẩnmà bên trong đó các pháp riêng được phân bổ. Phân loại đầu tiên, mà nó bao gồm những pháp cóđiều kiện, đề cập đến tập hợp của chúng như được lĩnh hội ở nơi một đời sống hữu tình. Phân loại này chia các pháp thành năm nhóm hay năm uẩn (skandha). Ở đây chúng ta có 1/ sắc uẩn(rūpaskandha): mười một pháp; 2/ thọ uẩn (vedanāskandha): một pháp; 3/ tưởng uẩn(saṃjñāskandha): một pháp; 4/ hành uẩn (saṃskāraskandha): 58 pháp; và 5/ thức uẩn(vijñānaskandha): một pháp. Phân chia thành năm nhóm này không chỉ hình thành nên một sự phân tích tất cả hiện tượng mà cũng được sử dụng để chứng minh rằng không có linh hồn/ ngã thể (ātman) bên trong thực thể con người, vì không có thứ nào trong năm uẩn có thể được đồng nhất với hay được xem như một linh hồn. Phân loại thứ hai chia các pháp liên quan đến quá trình nhận thức. Ở đây chúng ta có sáu căn (indriya) và sáu trần (viṣaya) được gọi chung là “xứ” hay “cơ sở” (āyatana) của nhận thứcSáu giác quan hay sáu nội xứ là: 1/ sắc xứ (cakṣur-indriyāyatana); 2/ nhĩ xứ (śrotra- indriyāyatana); 3/ tỷ xứ (ghrāna- indriyāyatana); 4/ thiệt xứ (jihvā- indriyāyatana); 5/ xúc xứ (kāya- indriyāyatana); và 6/ thức xứ (mana- indriyāyatana). Sáu đối tượng nhận thức hay sáu ngoại xứ là: 7/ sắc (rūpa-āyatana); 8/ thanh (śabda-āyatana); 9/ hương (gandha- āyatana); 10/ vị (rasa- āyatana); 11/ xúc (spraṣṭavya- āyatana); 12/ pháp (dharma- āyatana). 11 xứ (āyatana) đầu mỗi thứ có một pháp; các đối tượng phi vật chất bao gồm 64 pháp. 

Loại thứ ba phân nhóm các pháp ở trong sự liên hệ với dòng chảy tương tục (santāna) của đời sống bên trong tam giới (Dục giới [kāma- dhātu], Sắc giới [rūpa-dhātu], và Vô sắc giới [ārūpya-dhātu]) như được miêu tả theo vũ trụ học Phật giáo. Nhóm này được phân thành mười tám giới hayyếu tố (dhātu). Nó bao gồm mười hai xứ được phân chia ở trên, bổ sung thêm một tập hợp sáu loại thức tương ứng. Như vậy chúng ta có: 13/ nhãn thức (cakṣur-vijñānadhātu); 14/ nhĩ thức (śrotra-vijñānadhātu); 15/ tỷ thức (ghrāṇa-vijñānadhātu); 16/ thiệt thức (jihvā-vijñānadhātu); 17/ thân thức(kāya-vijñānadhātu); và 18/ ý thức (mano-vijñānadhātu). Bên trong nhóm này, năm căn và năm trần mỗi thứ có một pháp (có mười pháp tất cả). Thức (số 6) được chia ở đây thành bảy giới (dhātu; số 6 cộng 13-18). Giới mà nó đại diện cho những đối tượng không phải vật chất (số 12) chứa đựng 64 pháp. Tất cả 18 giới tồn tại nơi dục giới (kāmadhātu) hay thế giới mà ở đó tâm hoạt động nhờ vào dữ liệu giác quan. Nơi thế giới vật chất vi tế (rūpadhātu: sắc giới), những đối tượng của ngửi và nếm (số 9-10) cùng tỷ thức và thiệt thức không còn tồn tại. Ở nơi thế giới không có vật chất/vô sắc giới (nhưng thường được giải thích là vật chất rất vi tế vì chúng ta vẫn còn ở bên trong saṃsāra), tất cả giới (dhātu) không còn tồn tại ngoại trừ thức (số 6), những đối tượng không thuộc vật chấtcủa nó (số 12), và khía cạnh phi giác quan của nhận thức (số 18). 

Cuối cùngchúng ta đi đến liệt kê các pháp riêng. Bên trong phân loại thành năm uẩn (skandha), sắc (rūpa) bao gồm 11 pháp: năm căn (1-5) và năm đối tượng giác quan tương ưng của chúng (7-11), cộng thêm một yếu tố bổ sung được thảo luận bên dưới. Xứ (āyatana) số 12 (những đối tượng không thuộc giác quan) ở trong hệ thống này được phân loại như một pháp không thuộc vật chất, và do đó không được xem xét ở đây. 

Sắc hay thân được hiểu bao gồm bốn yếu tố chính yếu (mahābhūta: tứ đại) - đất, nước, lửa và không khí. Sắc phụ thuộc/ sắc phái sinh (bhautika: đại chủng phái sinh, xuất phát từ hay liên quan đến sắc) được đại diện bởi các căn và đối tượng của chúng (tức là dữ liệu giác quan). Bốn yếu tốchính yếu (tứ đại) được nói đến ở trong Phật giáo, nhưng cần hiểu bốn đại được sử dụng để đề cập đến bốn đặc tính: cứng (đất), cố kết (nước), hơi nóng (lửa) và chuyển động (gió), chứ không phải xem tứ đại là tự thể. Sắc đại (bốn yếu tố) có mặt nơi một thân thể duy trì sắc phái sinh (nhữnggiác quan và đối tượng của chúng). Bởi vì các Phật tử phân tích sắc bên trong ngữ cảnh của một đời sống hữu tìnhmô tả của họ về sắc chính yếu liên quan đến việc nhận thức cách nó đóng chức năng và cách nó xuất hiện, không phải với những gì nó là, vì nói một cách chính xác nó không tồn tạiThế giới là một dòng chảy tương tụcđời sống thay đổi từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Do đó, bởi vì những Phật tử tránh nói đến linh hồn hay tự thể, sắc chất chỉ được gọi là dữ liệu giác quan. Một định nghĩa như vậy về các pháp vật lý mà chúng hình thành nên dữ liệu giác quan (10 pháp) giải thích cho thành phần vật chất mà nó duy trì thức, thành phần khác của đời sống hữu tình. Vậy pháp thứ 11 là gì? 

Nhất thiết hữu bộ, khi xem xét hành vi con người qua ba khía cạnh thân, khẩu và ý, đã phân chianghiệp (khi nó hoạt động bên trong một đời sống hữu tìnhthành ý nghiệp (manas, đồng nhất với ý chí hay cetanā), thân nghiệp và khẩu nghiệpÝ nghiệp được xếp loại là không thuộc vật chấtnhưng thân nghiệp và khẩu nghiệp mà chúng xuất phát từ ý nghiệp được phân loại thuộc về vật chất (rūpaskandha). Ngoài rathân nghiệp và khẩu nghiệp được xem là một sự “biểu hiện” (vijñapti) (bên ngoài); nhưng khi ý nghiệp hành hoạt những không biểu hiện ra ngoài, thì nó được xem là “không biểu hiện” (avijñapti: vô biểu). Chính “vô biểu sắc” (avijñaptirūpa) hình thành nên pháp thứ 11 trong phân chia uẩn. Mặc dù không phải vật chất, nó được phân loại như vật chất bởi vì thân nghiệp và khẩu nghiệp mà nó liên quan đến được phân loại như vậy. 

Ba uẩn (thọ, tưởng và hành) cùng chứa 60 pháp, mà nó được gộp vào như là những đối tượng không phải vật chất bên trong hai phân loại khác (xứ/āyatana, giới/dhātu; cả hai đều là số 12). Bayếu tố không thể thay đổi (asaṃskṛta) và vô biểu (avijñapti) cũng được gộp vào số những pháp không thuộc vật chất của hai sự phân chia sau, như vậy tạo thành một tổng số 64 pháp. 

Bây giờ tôi sẽ mô tả 60 pháp mà chúng được đưa vào trong cả ba phân loại (uẩn/skandha, xứ/āyatana, và giới/dhātu). Chúng được chia thành hai nhóm chính: một nhóm bao gồm 46 tâm sở hữu pháp (caittadharma), mà chúng sinh khởi hay ở trong sự nối kết với thức hay tâm thanh tịnh(citta-saṃprayuk-tasaṃskāra); nhóm thứ hai bao gồm 14 pháp bất tương ưng hành, tức là những pháp mà chúng không liên hệ đến sắc cũng không liên hệ đến tâm (rūpa-citta-viprayukta-saṃskāra). 

46 tâm sở hữu pháp bao gồm: mười tâm đại địa pháp (citta-mahābhūmika) mà chúng có mặt nơi đời sống hữu tình: 1/ thọ, 2/ tưởng, 3/ tư, 4/ xúc, 5/ dục, 6/ huệ, 7/ niệm, 8/ tác ý, 9/ thắng giải, 10/ định; mười thiện đại địa pháp (kuśala-mahābhūmika) mà chúng có mặt nơi những điều kiện thích hợp: 11/ tín, 12/ cần, 13/ xả, 14/ tàm, 15/ quý, 16/ vô tham, 17/ vô sân, 18/ bất hại, 19/ khinh an, 20/ bất phóng dậtsáu đại phiền não địa pháp (kleśa-mahābhūmika): 21/ si, 22/ phóng dật, 23/ giải đãi, 24/ bất tín, 25/ hôn trầm, 26/ trạo cử; mười tiểu phiền não địa pháp (upakleśa-bhūmika) mà chúng xảy ra vào những thời điểm khác nhau: 27/ phẫn, 28/ phú, 29/ xan, 30/ tật, 31/ não, 32/ hại, 33/ hận, 34/ xiễm, 35/ cuống, 36/ kiêu; hai bất thiện đại địa pháp (akuśala-mahabhūmika): 37/ vô tàm, 38/ vô quý; và tám pháp bất định (aniyata-bhūmika): 39/ hối, 40/ miên, 41/ tầm, 42/ tứ, 43/ tham, 44/ sân, 45/ mạn, và 46/ nghi. Tất cả 46 pháp được liệt kê ở trên không thể nối kết với (hay đóng chức năng với) tâm tại cùng thời điểm ở trên nguyên tắc chung rằng khuynh hướng bên trong của chúng hướng đến hoặc tốt hoặc xấu. 

14 pháp bất tương ưng hành là: 47/ đắc (prāpti), hay tác lực kiểm soát dòng chảy đời sống của một người, 48/ phi đắc (aprāpti) mà nó làm ngưng lại một vài yếu tố, 49/ đồng phận, 50/ vô tưởng thiền, 51/ vô tưởng định, 52/ diệt tận định, 53/ mạng căn, 54/ sanh, 55/ trụ, 56/ dị, 57/ diệt, 58/ cú, 59/ văn, và 60/ thân. Tịnh thức hình thành nên một pháp (uẩn thứ năm, xứ thứ sáu). Ở nơi sự phân chia thành các giới (dhātu), vijñāna được phân chia nhỏ thành bảy giới (số 6 cộng 13-18) ở đóchính thức ấy được xem trong sự liên hệ đến các căn và những đối tượng không thuộc vật chất. Bổ sung tất cả các pháp điều kiện cùng với 11 pháp vật chất, một pháp đại diện thức, 46 tâm sở hữu pháp, và 14 pháp bất tương ưng - tất cả có 72 pháp. Đây là những pháp mà ở đó toàn bộ sự hiện hữu hiện tượng được phân tích và giải thích

Nhất thiết hữu bộ cũng liệt kê 3 pháp không điều kiệnkhông gian (ākāśa), trạch diệt vô vi(pratisaṃkhyānirodha: giải thoát nhờ vào trí phân tích), và phi trạch diệt vô vi (apratisaṃkhyā-nirodha: giải thoát không nhờ vào trí phân tích). Như vậy, trong Nhất thiết hữu bộtổng số pháp cóđiều kiện và không có điều kiện là 75. 

Truyền thống Theravāda liệt kê chỉ một pháp không điều kiện đó là Niết-bàn, và 81 pháp điều kiện:bốn đạibốn đại phái sinh; năm căn; năm trần; hai khía cạnh giới tính (nam và nữ); trái tim là yếu tốduy trì đời sống; hai loại vô biểu sắc (avijñaptirūpa); một sức mạnh vật chấtkhông gianba tínhchất của thân (nhanh nhẹn, linh hoạt và uyển chuyển); ba đặc tính của các pháp có điều kiện (hình thành, duy trì, và suy tàn); thực phẩm vật chất; 53 yếu tố tâm, bao gồm 25 thiện, 14 bất thiện và 13trung tính; và thức.

Nhất thiết hữu bộ khẳng định rằng tất cả pháp điều kiện là thực có (chúng có mặt vì chúng xảy ra) và rằng chúng có đặc tính tồn tại, kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn, và lại biến mất để táixuất hiện trong một hình thức mới được quyết định theo nghiệp. Họ cũng cho rằng các pháp tồn tạitrong ba thời kỳquá khứhiện tại và tương lai. 

Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda), một chi phái thuộc Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika), xem tất cả pháp là không thật và cho rằng chỉ những pháp vô vi là thật. Thuyết giả bộ (Prajñaptivāda), một chi phái khác thuộc Đại chúng bộ, cho rằng 12 xứ là không thật bởi vì chúng là sản phẩm của các uẩn, là những thực thể thực có duy nhất. Những người Kinh lượng bộ (Sautrāntika) thừa nhận sự hiện hữu của suy nghĩ nhưng bác bỏ phần lớn những pháp tương ưng và tất cả những pháp bất tương ưng hành, phủ nhận thực tại của quá khứ và tương lai, và khẳng định rằng chỉ hiện tại có mặt. Họ cũng bác bỏ sự có mặt của những pháp không điều kiện, xem chúng chỉ là những thứ không có mặt. Trung quán tông (Mādhyamika) bác bỏ hoàn toàn thực tại sau cùng của các pháp. Duy thức tông (Vijñānavāda) thừa nhận tâm như là thực tại duy nhất (cittamātra) và xem tất cả sự có mặt hiện tượng là sự phản chiếu ảo ảnh của tâm. Cuối cùngmột thể thức Phật giáo nổi tiếng thể hiện khía cạnh triết học liên hệ với việc phân tích chúng sanh theo các pháp: “Bất kỳ những gì sinh khởi từ một nguyên nhânNhư Lai nói đến nguyên nhân của chúng, và cũng giải thích sự chấm dứt của chúng”. 
Đăng Nguyên
____________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
- Vasubandhu, Abhidharmakośa. 
- Stcherbatsky, The Central Conception of Buddhism and the Meaning of the Word “Dharma”, Delhi, 1970. 
- A Buddhist Manual of Psychological Ethics: Dhammasangani, translated by C. A. F. Rhys Davids, London, 1923. A. 
- K. Warder, “Dharmas and Data”, Journal of Indian Philosophy 1 (1971), tr. 272–295. 
Bhuti, Tsewang. “Klong rdol bla ma’s List of 108 Dharmas of Prajnaparamita and the Commentary.” Tibet Journal 25, no. 3 (2000): 48–68. 
- Cox, C. Disputed Dharmas, Early Buddhist Theories on Existence: An Annotated Translation of the Section of Factors Dissociated from Thought from Sanghabhadra’s Nyayanusara. Tokyo, 1995. 
- Dessein, Bart. “Dharmas Associated with Awarenesses and the Dating of the Sarvastivada Abhidharma Works.” Asiatische Studien 50, no. 3 (1996): 623-651. 
- Frauwallner, E., S. F. Kidd, and E. Steinkellner. Studies in Abhidharma Literature and the Origins of Buddhist Philosophical Systems. Albany, 1995. Ganguly, S. Treatise on Groups of Elements: The Abhidharma-dhatukaya-padasastra: English Translation of Hsüan-tsang’s Chinese Version. Delhi, 1994. 
- Mejor, M. Vasubandhu’s Abhidharmakosa and the Commentaries Preserved in the Tanjur. Stuttgart, 1991.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7652)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8766)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7065)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9291)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8728)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10175)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8162)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9495)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6905)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7947)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8333)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8604)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8358)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8474)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11209)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8520)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10659)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9427)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9206)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9521)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10274)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16136)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19098)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8632)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 7990)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24094)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9347)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7598)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10483)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17613)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6910)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8830)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12293)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7651)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14527)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8188)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7749)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8791)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14759)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9225)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12277)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8458)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14455)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12409)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8352)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10098)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7719)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 15975)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8170)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8225)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7820)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11130)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9091)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9223)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8365)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7504)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7968)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8767)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9262)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11410)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant