Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thể Tánh Của Tâm

11 Tháng Chín 201807:36(Xem: 5287)
Thể Tánh Của Tâm

THỂ TÁNH CỦA TÂM 

Nguyễn Thế Đăng

Thể Tánh Của Tâm


Đoạn kinh tiếp theo của Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói về thể tánh của tâm. Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biếtchứng ngộ pháp giới thể tánh.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất,pháp giới ấy có phải trước kia bị trói buộc mà nayđược giải thoát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, pháp giới ấy chẳng phải trước bị trói buộc mà nay được giải thoát…

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất, có phải là ngài dứt hết phiền não mà được tâm vô lậugiải thoát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Tôi được tâm vô lậu giải thoát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất, ngài dùng những tâm nào để được giải thoát? Là tâm quá khứ, tâm vị lai hay tâm hiện tại? Thưa Đại đức, tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng an trụ, thì dùng tâm nào để được giải thoát?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm hiện tại được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai được giải thoát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức, vậy sao ngài lại nói tâm được giải thoát? Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, ở nơi thế đế mà nói là tâm được giải thoát. Trong đệ nhất nghĩa đếđều không có tâm bị trói buộc hay tâm giải thoát.

 Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức, có phải ngài muốn cho pháp giới thể tánh có thế đế và đệ nhất nghĩa đế chăng?

Ngài Xá-lợi-phất nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, pháp giới thể tánh không có thế đế và đệ nhất nghĩa đế”.

Đây là cuộc đối thoại giữa hai vị đã giải thoát – tâm giải thoát và tuệ giải thoát – cốt để cho đại chúng nghe. Như ở đoạn đối thoại trước có năm trăm Tỳ-kheo được tâm vô lậu; còn ở đoạn này, khi đoạn đối thoại chấm dứt, có hai trăm Tỳkheo “bỏ chúng mà đi”.

“Pháp giới ấy chẳng phải trước bị trói buộc mà nay được giải thoát”: Pháp giới chưa hề bị trói buộcnên cũng không có việc giải thoát. Tại sao thế? Như đoạn trước, kinh nói: “Pháp giới chính là pháp giới thể tánh”. Pháp giới không hề có nhiễm ô: “Chính nhiễm ô là pháp giới thể tánh”.

Pháp giới vốn thanh tịnh vì là tánh Không: “Vì nghĩa ấy nên Như Lai nói: Tỳ-kheo hiểu các pháp bình đẳng giống như hư không. Như đụng chạm hư không thì không có chỗ đụng chạm, pháp của Sa-môn cũng như vậy”.

Tất cả các pháp vốn thanh tịnh, vốn không nhiễm ô, vì các pháp là tánh Không, các pháp khôngsanh không diệt: “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát sơ phát tâm tu hành Không, Vô tướng vàVô táchiểu biết tất cả pháp không sanh không diệt, thì gọi là Bồ-tát sơ phát tâm vậy”. Chính vìpháp giới là pháp giới thể tánh, là tánh Không, nên pháp giới không có trói buộc và giải thoát.

Nhưng nếu pháp giới không có trói buộc không có giải thoát thì tại sao chúng ta thấy có trói buộc? Đó là vì tâm chúng ta có nhiễm ô vậy. Thế nên tiếp đó hai vị bàn về tâm, tâm nào có nhiễm ô, cótrói buộc; tâm nào là vô lậu (không có nhiễm ô), giải thoát.

Thiền quán về tâm, thì thấy tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, và tâm hiện tại chẳng an trụ, nghĩa là tìm tâm thì không thấy cái gì là tâm cả. Không có tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Nghĩa là cái chúng ta gọi là tâm, dù là tâm nào, đều là tánh Không. Thế nên chẳng có tâm nào giải thoát cả, cho nên ngài Xálợi-phất nói, “Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai được giải thoát, chẳng phải tâm hiện tại được giải thoát”. Tất cả mọi tâm là tánh Không, cho nên không có tâm nào bị nhiễm ôtrói buộc; cũng không có tâm nào vô lậu giải thoát. Kết luận đoạn này, ngài Xálợi-phất nói, “Pháp giới thể tánh không có thế đế và đệ nhất nghĩa đế”, nghĩa là trong pháp giới thể tánh, trong tánh Không, không có tâm trói buộc và tâm giải thoát, không có phiền não và vô lậu giải thoát, không có sanh tử nhiễm ô và Niếtbàn vô lậu.

Nói cách khác, trong pháp giới thể tánh chỉ có pháp giới thể tánhngoài ra không có cái gì khác. Trong tánh Không chỉ có tánh Khôngngoài ra không có cái gì khác.

Khi ngài Văn-thù-sư ợi nói, “Tâm không có trong ngoài và ở giữa nên không có trói buộc và giải thoát”, thì hai trăm Tỳ-kheo rời chỗ ngồi bỏ đi, vì “nếu không có tâm giải thoát, thì chúng tôi lại xuất gia tu hành để làm gì?”.

Sau đó ngài Văn-thù-sư-lợi biến hóa ra một Tỳ-kheo, đón đường nhóm Tỳ-kheo bỏ đi ấy để giảng tiếp cho họ.

“Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Nay chúng ta cùng nhau suy luận. Tâm của các Đại đức là tướng dạng gì? Là màu xanh vàng đỏ trắng hay màu tím pha lê? Là thật hay chẳng thật? Là thường hay vô thường? Là sắc hay chẳng phải sắc?

Nhóm Tỳ-kheo nói: Thưa Đại đức, tâm chẳng phải sắc, chẳng thấy được, không có hình bóng, cũng không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị. …

Hóa Tỳ-kheo nói: Thưa các Đại đức, tâm các ngài đã không hình sắc, không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị, chẳng phải trong ngoài ở giữa, thì nó có thật thành tựu chăng?

Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: Không phải vậy.

Hóa Tỳ-kheo nói: Thưa các Đại đức, vì nghĩa ấy nên ngài Văn-thù-sư-lợi nói pháp giới thể tánhkhông có nhiễm tịnh. Thưa các Đại đức, vì các ngài là phàm phu điên đảo chấp ngã và ngã sở,phát khởi tâm đi vào các cảnh giới mà sanh khởi tâm phan duyên. Đó là tất cả những pháp phan duyên sanh diệt, chẳng trụ, biến đổi mà Diệt đế có thể dứt diệt.

Nếu tâm duyên nơi việc xuất giathọ giới cụ túctu đạo đắc quả, thì thể tánh của tâm ấy rỗng không chẳng có thật, chỉ từ vọng tưởng phát khởi. Đã là vọng tưởng chẳng thật thì chẳng sanh chẳng trụ chẳng diệt. Nếu đã là chẳng sanh trụ diệt thì không có trói buộc cũng không có giải thoát, không hướng quả không chứng quả.

Vì nghĩa ấy nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói pháp giới thể tánh không nhiễm không tịnh, cũng không hướng không chứng, không có giải thoát.

Nghe Hóa Tỳ-kheo giảng giải, nhóm Tỳ-kheo ấy được vô lậu giải thoát”.

Quán chiếu vào tâm, thì thấy tâm không hình sắc, không có xúc đối, không nơi chỗ, không hiển thị, chẳng phải trong ngoài ở giữa, không thật thành tựu, thì tâm là không có tự tánh, là vô tự tánh, làtánh Không. Nếu tâm ấy không thể tìm thấy ở đâu cả, không thật thành tựu, thì tâm ấy là vô tự tánh, là tánh Không, và là tánh Không cho nên vốn giải thoát. Như hoa đốm giữa không trung,không thật thành tựu cho nên vốn giải thoát. Vốn giải thoát vì chưa từng có. Thế nên ngài Văn-thù-sưlợi nói pháp giới thể tánh không có nhiễm tịnh, không có tâm đã nhiễm ô và tâm được giải thoátkhỏi nhiễm ô. Như hoa đốm giữa hư không chưa từng có thì lấy đâu có sự việc giải thoát cho haykhỏi hoa đốm.

Chỉ vì chúng sanh chúng ta vô cớ vọng tưởng ra ngã và ngã sở, chủ thể và đối tượng đã sanh thì có tâm phan duyên bám chấp theo cảnh và tâm mà chạy theo sanh tử. Nếu theo đuổiquán sátđến tận nguồn gốc của tâm này thì thấy nó “rỗng không chẳng có thật, chẳng sanh chẳng trụ, chẳng dị chẳng diệt”. Tâm là rỗng không, không thật không sanh không diệt, là tánh Không, thì có cái gì trói buộc để phải giải thoát, có cái gì để hướng quả và chứng quả.

Tóm lại, khi nhìn thấy tận thể tánh của tâm, không chỉ bằng ý thức, mà bằng thiền định và thiền quán để hiểu biết rằng tâm không thật thành tựu, tâm chưa từng sanh, trụ, diệt, tâm là tánh Không, người ta giải thoát.

Có câu chuyện Thiền nói lên việc nhìn thấy thể tánh của tâm, được ngộ đạo và giải thoát của Nhị tổ Huệ Khả như sau:

Sư Huệ Khả tìm đến Tổ Bồ-đề-đạt-ma để hỏi đạo, mong hết nghi để giải thoát. Sư đứng suốt đêmngoài trời tuyết, Tổ chẳng ngó ngàng gì đến. Sư chặt cánh tay để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Được phép hỏi, Sư nói:

 - Tâm con chưa an, xin thầy dạy phép an tâm.

Tổ nói:

-Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.

Sư im lặngtư duy quán chiếu hồi lâu, rồi nói:

 - Con tìm tâm mãi mà không thể được.

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Sư Huệ Khả nhân đây được khế ngộ, được ban cho pháp danh là Huệ Khả.

Sư ở với Tổ cho đến lúc Tổ quy tịch, rồi sau đó đi các nơi để hoằng truyền Chánh pháp.

Nguyễn THế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo số 304 1-9-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14612)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14045)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14931)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16544)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29862)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16200)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15526)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14877)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14867)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17870)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15565)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38650)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26706)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39632)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50737)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38717)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35026)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18297)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16456)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42381)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39222)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35594)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17448)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46500)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17144)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28486)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18986)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17582)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17105)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17536)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16514)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16866)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30825)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16931)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18495)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18441)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17371)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18159)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17064)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23468)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16981)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17452)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17659)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17053)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15732)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18022)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17384)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17177)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29506)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27707)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18156)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16098)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15345)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23008)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14815)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55085)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14188)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13241)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14162)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15504)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant