Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hành Thiền Trong Khi Lâm Chung

23 Tháng Chín 201814:19(Xem: 7277)
Hành Thiền Trong Khi Lâm Chung

HÀNH THIỀN TRONG KHI LÂM CHUNG

 Dalai Lama

Nguyên bản: Meditating while dying

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

 

Kiếp sống này biến mất rất nhanh chóng

Giống như thứ gì đó được viết trên mặt nước với một que cây

-ĐỨC  PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ Số Tám

 

Xin cho chúng tôi phát sinh một tâm thức mạnh mẽ của đạo đức

Khi những yêu tố - đất, nước, gió, lửa – tan rã trong những giai đoạn

sức mạnh thân thể bị mất, miệng và mũi khô và co lại

Sức ấm rút lui, hơi thở hổn hển, và âm thanh khò khè nổi lên

 

-***-

 

Bảy thi kệ đầu được trình bày phù hợp với cả những hình thức của giáo lý nhà Phật, Kinh điểnMật điển, Mật điển liên hệ với một sự thực tập đặc biệt gọi là quán tưởng tự thân ở đây và bây giờ như một hiện thân của từ bithông tuệ với hình thể của một Đức Phật. Từ thi kệ số tám trở đi, sự trình bày chính yếu về những sự thực tập Mật điển, một cách đặc biệt từ loại Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già).

 

Việc diễn tả về sự chết trong dạng thức sự tan rã của thân và tâm và của bốn yếu tốđặc biệt trong Tantra Yoga Tối Thượng. Sau khi thụ thai một tiến trình của hình thành diễn tiến từ vi tế đến thô, nhưng vào lúc lâm chung có một sự tan rã từ thô đến tế. Những hiện tượng tan rã gồm có bốn yếu tố - đất (vật chất cứng của thân thể), nước (chất lỏng), lửa (sức nóng), và gió (năng lượng, chuyển động).

 

Cho dù ta sống hết tuổi thọ của mình hay không, thì tiến trình của sự chết vẫn liên hệ nhiều thời kỳ. Trong một sự chết đột ngột, ta đi qua những giai đoạn này một cách rất nhanh chóng, với một cơ hội nhỏ nhận thấy chúng; với những ai chết dần dần, thì có thể nhận ra và làm lợi ích cho những giai đoạn này. Những điềm lạ của sự chết, chẳng hạn như một sự thay đổi trong cung cách thở di chuyển đến lỗ mũi, những giấc mơ, và những dấu hiệu thể chất, có thể xảy ra thậm chí nhiều năm trước cái chết thật sự, mặc dù đối với những người bình thường thì những điều này thường xảy trong một hay hai năm trước khi chết. Những điềm lạ của sự chết kể cả việc trở nên ghê tởm với những thứ chung quanh ta, nhà cửa, bạn bè, và v.v… kết quả trong một nguyện ước đến nơi nào khác. Hay, ta có thể phát triển tham luyến quá lắm với những thứ mà ta đã có trước đây. Ta có thể chuyển từ khắc nghiệt sang hợp tác, hay một cung cách khác trước đây. Sự nhiệt tình của ta  có thể tăng hoặc giảm rõ rệt. Có thể có một sự thay đổi trong phong cách thể chất hay thái độ của ta. Bản chất sự đối thoại của ta có thể trở nên rất thô lỗ - việc chửi thề và v… - hay ta có thể nói lặp đi lặp lại sự chết. 

 

Khi tiến trình của sự chết thật sự bắt đầu, ta đi qua tám giai đoạn. Bốn giai đoạn đầu liên hệ đến sự tan rã của bốn yếu tố. Bốn giai đoạn sau liên hệ đến sự tan rã của thức vào trong trình độ sâu thẩm nhất của tâm, gọi là tâm linh quang. Hãy nhớ rằng, sự trình bày những giai đoạn của sự chết là một bản đồ của những thể trạng sâu xa của tâm vốn xảy ra khắp suốt trong đời sống hàng ngày và thường bị coi thường hoặc không ai thấy. Tám giai đoạn này diễn tiến rõ rệt theo trình tự khi lâm chung, đi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngất xỉu và trong tình trạng khích động cực điểm - cực khoái, và trong trình tự ngược lại sau một tiến trình của sự chết hoàn toàn chấm dứt, cũng như khi thức giấc từ giấc ngủ, khi bắt đầu một giấc mơ, và khi nhảy mũi, ngất xỉu, và khi tình trạng khích động cực độ chấm dứt.

 

Tám giai đoạn được xác định bằng phương cách của sự toại nguyện trực quan mặc dù không thấy bằng mắt:

 

Thứ tự tiến tới

1-   Ảo giác

2-   Luồng khói

3-   Đom đóm

4-   Ngọn lửa của cây đèn dầu

5-   Tâm bầu trời trắng sống động

6-   Tâm bầu trời đỏ cam sống động

7-   Tâm bầu trời đen sống động

8-   Linh quang

 

Thứ tự ngược lại

1-  Linh quang

2-  Tâm bầu trời đen sống động

3-  Tâm bầu trời đỏ cam sống động

4-  Tâm bầu trời trắng sống động

5-  Ngọn lửa của cây đèn dầu

6-  Đom đóm

7-  Luồng khói

8-  Ảo giác

 

BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TRONG THỨ TỰ TIẾN TỚI

SỰ TAN RÃ CỦA BỐN YẾU TỐ

 

Tổng quát thì các yếu tố thô hòa tan vào trong bốn yếu tố vi tế hơn. Khi năng lực của các yếu tố thô phục vụ như sự hổ trợ cho sự thoái hóa thức, thì các yếu tố vi tế trở nên rõ ràng hơn. Có tám giai đoạn, bốn giai đoạn đầu là: 

 

Giai đoạn 1: yếu tố đất thoái hóa và hòa tan vào yếu tố nước. Những khía cạnh rắn chắc của thân thể, chẳng hạn như xương, không còn có thể phục vụ như một khung sườn, hay nền tảng, cho thức; năng lực của những khía cạnh rắn chắc làm như vậy để hòa tan vào, hay được chuyển biến đến, các chất lõng của thân thể, chẳng hạn như máu hay đàm. Bây giờ năng lực của yếu tố nước hoạt động như cơ sở của thức trở thành rõ ràng hơn. Thân thể của ta trở thành mõng manh hơn một cách đột ngột và tay chân ta lỏng lẻo. Ta mất sức mạnh thể chất – sức sống và ánh sáng của thân thể bị giảm thiểu một cách căn bản, làm nó kiệt quệ. Sức nhìn của ta trở thành  đen tối và không rõ ràng; ta không còn thể mở mắt và nhắm ta được nữa. Ta có thể có một cảm giác như chìm vào trong đất hay dưới bùn, và ta có thể ngay cả kêu gọi , “Đưa tôi lên!” hay cố gắng vùng vẩy gượng lên, nhưng điều quan trọng là không chiến đấu; hãy duy trì sự tĩnh lặng trong một thái độ đạo đức. Những gì ta thấy trong tâm thức giống một ảo giác.

 

Giai đoạn 2: năng lực của yếu tố nước suy thoái và hòa tan vào trong yếu tố lửa – hơi ấm vốn duy trì thân thể - và năng lực của yếu tố lửa phục vụ như căn bản của thức được nâng cao. Ta không còn trải nghiệm những cảm giác của sung sướng hay đớn đau, hay ngay cả những cảm giác trung tính, được phối hợp với các cảm giácý thức. Miệng, lưỡi, và cổ họng khô qua việc mất nước dãi, và cặn bả hình thành trên răng. Những chất lỏng khác, chẳng hạn như nước tiểu, máu, chất lỏng tái tạo, và mồ hôi, bị khô cạn. Ta không còn có thể nghe những âm thanh, và các tiếng vo ve thông thường trong các lỗ tai dừng lại. Những gì ta thấy trong tâm giống như những luồng khói phun ra, hay khói dày đặc khắp phòng, hay khói dâng lên cuồn cuộn từ một ống khói.

 

Giai đoạn 3: năng lực của yếu tố lửa – suy thoái và hòa tan vào yếu tố gió – những luồng hiện tại của không khí, hay năng lượng, điều khiển các chức năng cơ thể khác nhau chẳng hạn như thở vào, thở ra, ợ hơi, khạc nhổ, nói năng, nhai nuốt, co duỗi tay chân, mở và khép miệng, cũng như nháy mắt, tiêu hóa, tiểu tiện, kinh nguyệt và xuất tinh. Hơi ấm của cơ thể tụt giảm, đưa đến sự bất lực trong tiêu hóa thực phẩm. Nếu ta đã hướng dẫn đời sống của ta không có đạo đức một cách vượt trội, hơi nóng thân thể tụ họp đi xuống từ đỉnh đầu đến tim, phần trên của thân thể trở nên lạnh trước, nhưng nếu ta đã sống một cách đạo đức ưu thế, hơi nóng tụ họp từ gót chân đi lên đến tim, và phần dưới cơ thể trở thành lạnh trước. Năng lực ngửi của mũi chấm dứt. Ta không thể chú ý đến các hành động và nguyện ước của bạn bè cùng người thân chung quanh ta, hay không nhớ tên của họ. Ta trải nghiệm việc thở khó khăn, thở ra trở thành dài hơn và dài hơn và thở vào sẽ ngắn hơn và ngắn hơn; cổ họng ta phát ra âm thanh khò khè hay thở hổn hển. Những gì chúng ta thấy trong tâm ta giống như hoa đốm, có lẽ bên trong làn khói, hay giống như tia lửa trong bồ hóng dưới đáy của một chảo sắt.

 

Giai đoạn 4: năng lực của yếu tố gió thô suy thoái và hòa tan vào thức. Lưỡi bắt đầu cứng và ngắn, gốc của nó biến thành màu hơi xanh.Việc trải nghiệm xúc chạm cơ thể không thể nữa, đối với hành động thân thể. Hơi thở qua các lỗ mũi dừng lại, nhưng có những trình độ vi tế hơn của hơi thở, hay gió, cho nên sự chấm dứt của hơi thở qua mũi không biểu thị việc hoàn tất tiến trình của sự chết. Những gì chúng ta thấy trong tâm giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp (hay như ánh sáng lập lòe phía trên cây đèn bơ hay đèn sáp). Thoạt tiên ánh sáng lập lòe giống như bơ hay sáp gần như cạn kiệt. Sau đó, khi những ngọn gió mà trên đó những nhận thức tinh thần lướt theo bắt đầu suy sụp, hiện tướng của ngọn đèn bắt đầu đứng lại.

 

Trong tổng quát, thân thể của một người được cấu thành bởi bốn yếu tố: tuy nhiên, qua những biến thể trong các kinh mạch và gió trong khuôn khổ này, thì những người khác nhau trải nghiệm những hiện tướng nội tại khác nhau trong tiến trình của sự tan rã. Đây là tại sao có những biến thể nhỏ khác nhau trong các sự giải thích về tiến trình này trong những Mật điển đặc thù được Đức Phật thuyết giảng, chẳng hạn như Bí Mật Tập Hội (hệ thống chính được giải thích trong quyển sách này). Thắng Lạc Kim Cang (Chakrasamvara), và Thời Luân Kim Cang (Kalachakra), cũng như trong những Mật điển nào đó của Trường phái Cựu dịch Phật giáo Tây Tạng, gọi là Nyingma. Những biến thể nhỏ này một cách chính yếu đến từ những khác biệt trong các kinh mạch trong thân thể và trong các làn gió và giọt của chất lỏng tinh hoa chảy qua  những kinh mạch đó. Vì những nhân tố nội tại này khác nhau trong từng cá nhân, cho nên những sự thực tập cũng hơi khác nhau. Thậm chí khi những nhân tố nội tại là giống nhau, nhưng những dấu hiệu của sự chết hiện lên trong tâm trong những cung cách khác nhau vì các hành giả du già đặt nhấn mạnh trên những điểm khác nhau trong thân thể.

 

Trong những giai tầng này ta cần một thái độ đạo đức vô ngại, vốn là nguyện ước được trình bày trong thi kệ này của Đức Ban Thiền Lạt Ma. Chúng ta là những chúng sanh bình thường dưới ảnh hưởng của sanh và tử cho nên chắc chắn có những xu hướng được thiết lập qua các kiếp sống của những hành vi tốt và xấu mà các kết quả của chúng chưa biểu hiện. Mỗi thời khắcchúng ta thực hiện các hành động được thúc đẩy bởi si mê là góp phần để sống trong vòng luân hồi. Những hành vi rất mạnh mẽ có thể đẩy tới không chỉ một mà nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi. Gần thời điểm lâm chung, một trong nhiều khuynh hướng nghiệp lành và không lành này được ấp ủ và phục vụ như cơ sở cho toàn bộ kiếp sống tới; nhiều nghiệp khác thiết lập những phẩm chất của sự sống chẳng hạn như sức khỏe, tiềm năng, và sự thông minh. Do thế, tư tưởng của ta, thể trạng tinh thần của ta, gần thời điểm lâm chung là rất quan trọng. 

 

Ngay cả nếu hầu hết trong lúc sống ta thực hành thái độ đạo đức, thì một xu hướng phi đạo đức gần lúc lâm chung có thể nuôi dưỡng thiên hướng phi đạo đức mà tất cả chúng ta có. Thậm chí một âm thanh quấy rầy bởi một người nào đó ngồi xuống một vật quá cứng, có thể làm phát sinh sự bực tứcsân hận. Ngược lại, một người không thường quen thuộc nhiều với đạo đức có thể phát triển một tâm đạo đức mạnh mẽ lúc lâm chung, làm kích thích nhưng xu hướng nghiệp lực đạo đức và đưa đến một sự tái sinh tốt đẹp. Do thế, ta phải chăm sóc thật kỹ càng thời điểm lâm chung và phát sinh tối đa như có thể bất cứ loại thái độ đạo đức mà ta có thể biểu hiện được. Thật rất quan trọng rằng những người có mặt với sự lâm chung biết rằng tâm thức người lâm chung đang ở trong một tình trạng rất phức tạp; họ phải rất cẩn trọng không làm quấy rầy – nói năng lớn tiếng, khóc lóc, và những vấn đề cư xử thô tháo – thay vì thế, phải tạo ra một không khí hòa bình.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-   Vậy ta sẽ không ngạc nhiên bởi tiến trình lâm chung khi nó bắt đầu, hãy học hỏi những giai đoạn tan rã của bốn yếu tố và những dấu hiệu ngoại tại cùng lúc ấy, như cho biết ở trên, và những dấu hiệu nội tại, được diễn tả trong những thi kệ.

2-   Chăm sóc thời điểm lâm chung vì vậy những xu hướng tốt đẹp được nuôi dưỡng và được kích thích bởi những quan điểm đạo đức.

3-   Những điềm báo trước sự chết có thể xuất hiện trong một hay hai năm trước khi sự chết thật sự đến. Những điều này cảnh báo ta về nhu cầu để chuẩn bị, nhưng thật tốt hơn là hãy sẳn sàng trước khi ấy.

 

-***-

 

Thi Kệ Số Chín

 

Xin cho chúng tôi nhận ra phương thức bất tử của chúng sanh

Khi những hiện tướng sai lầm đủ thứ sợ hãi và kinh khiếp

Và trong ảo giác, làn khói, và đom đóm đặc thù xuất hiện

Và khung sườn của tám mươi nhận thức biểu thị chấm dứt

         

Khi bốn yếu tố tan rã, những hiện tướng đủ loại xuất hiện. Đôi khi ngay cả trước  khi mắt và tai chấm dứt thể hiện chức năng, thì những cảnh tượngâm thanh bất thường xuất hiện. Và luôn luôn, những ảo giác khác nhau xuất hiện tới ý thức. Thí dụ, những người bị đau khổ vì chứng bệnh suy nhược có thể thấy đám lửa khủng khiếp, tạo nên sự sợ hãi lớn. Những người khác trải nghiệm các ảo giác dễ chịu và ngay cả ngạc nhiêncảm thấy thoải mái. Những sự khác nhau như thế này đến từ từ những khuynh hướng được tạo thành bởi những hành vi đạo đứcphi đạo đức trong kiếp sống này và những kiếp sống trước. Những sự khác biệt này báo hiệu thể loại và phẩm chất của sự tái sanh sắp xảy ra, như cung cách mà phẩm chất của ánh sáng trên bầu trời trước khi mặt trời mọc báo trước thời tiết trong ngày.

 

Khi bốn yếu tố tan rã từng thứ một, thì những dấu hiệu bên trong của sự chết xuất hiện.Sự của hòa tan yếu tố đất vào nước sinh ra một hiện tượng giống như một ảo giác trong sa mạc; sự hòa tan của yếu tố nước vào trong lửa làm sinh ra một hiện tượng giống như sự phun khói từ một ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; sự hòa tan của lửa vào gió tạo ra một hiện tượng giống như đom đóm lửa, hay như những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo để sấy khô ngủ cốc. (Sự hòa tan của yếu tố gió sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo)

 

Những dấu hiệu đó – ảo giác, khói, đom đóm, và ngọn lửa cũng như bốn thứ được diễn tả sau đây – xuất hiện đến những ai chết từ từ. Chúng không xảy ra đối với những ai chết một cách đột ngột, chết trong tai nạn hay vì vũ khí.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-   Hãy nhận ra rằng những hiện tướng ảo giác, một số thậm chí ghê sợ và khủng khiếp, vốn có thể xảy ra trong lúc lâm chung qua nghiệp lực. Đừng bị xao lãng vì chúng.

2-   Hãy nghiên cứu ba hiện tướng đầu trong tám thứ ấy: ảo giác như ở trong sa mạc; khói phun từ ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; đom đóm lửa, hay những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo.

 

-***-

 

Thi Kệ Số Mười

 

Xin cho chúng tôi phát sinh sự tỉnh thứcquán chiếu mạnh mẽ

Khi yếu tố gió bắt đầu hòa tan vào thức

Và sự tương tục của hơi thở bên ngoài chấm dứt,

các hiện tướng thô nhị nguyên tan rã,

Và một hiện tướng như ngọn đèn bơ cháy ló dạng.

 

Thức được định nghĩa như thứ vốn trong sánghiểu biết. Sự trong sáng trong ý nghĩa kép là bản chất tự nhiên của nó là rõ ràng và nó chiếu sáng, hay phát giác, giống như ngọn đèn dầu xua tan bóng tối vì thế các đối tượng có thể được thấy. Thức cũng hiểu biết đối tượng trong ý nghĩa rằng tối thiểunhận biết chúng, ngay cả khi nó không biết chúng một cách chính xác.

 

Thứcđược cấu thành bởi những thời khắc, thay vì những tế bào, các nguyên tử, hay những hạt. Trong cách này thức vật chất có những bản chất khác biệt một cách căn bản, và do vậy, chúng có các nhân chính yếu khác biệt. Những thứ vật chất có các thứ vật chất khác như những nhân chính yếu của chúng (được gọi như vậy vì chúng sản sinh thể chất, hay thực thể căn bản, của hệ quả), bởi vì phải có một sự phù hợp trong căn bản tự nhiên giữa nhân chính yếu và quả chính yếu. Thí dụ, đất sét là nhân chính yếu của một chậu bằng đất. Nguyên nhân chính yếu của một tâmphải tự chính nó là điều gì đó vốn trong sánghiểu biết – một thời khắc trước của tâm. Do vậy, bất cứ thời khắc nào của thứcđòi hỏi một thời khắc trước của thứccho nhân chính yếu của nó, vốn có nghĩa là phải có một sự tương tục vô thỉ của tâm. Điều này là vấn đề một vòng vô thỉ của tái sanh được thiết lập qua lý luận như thế nào. Thêm nữa, nếu có một ký ức chính xác của sự tái sanh, thì đó là một dấu hiệu đầy đủ - không phải mọi người phải nhớ. Sự vắng mặt của những kiếp sống quá khứ và  tương lai chưa bao giờ được nhận thức một cách trực tiếp, trái lại có những trường hợp được chứng thực về một ý ức rõ ràng của những kiếp sống quá khứ. Mặc dù sự thật rằng thân thể lệ thuộc vào những điều kiện cho sự tăng và giảm của nó, nhưng thân thể được ban cho sự sống, và khi sự sống ấy bị buộc phải chấm dứt, thì nó nhanh chóng bị thối rữa và trở thành một xác chết. Bất chấp nó xinh và đẹp như thế nào đi nữa thì nó cũng biến thành một xác chết. Nếu ta phân tích sức sống vốn giữ cho thân thể này khỏi thối rữa, thì ta sẽ thấy rằng đó là tâm. Dĩ nhiên xác thịt được kết nối vớithứcđể giữ nó khỏi bị phân hủy. Sự tương tục của tâmnày là những gì tiến diễn đến kiếp sống tới.

 

Sự khác biệt trong bản chất giữa tâm và vật chất đòi hỏi những nhân chính yếu của chúng là khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa rằng tâm và vật không tương tác lẫn nhau, vì chúng làm như vậy trong nhiều cách. Vật chất có thể là một điều kiện bổ trợ của tâm, chẳng hạn như khi vật chất vi tế bên trong con mắt hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi một màu sắc hay một hình tướng hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi thân thể của chính ta hoạt động như một sự hổ trợ, hay một căn bản của chính thân thức

 

Tương tự thế, thứctạo hình vật chất vì nó là các hoạt động của chúng ta, hay các nghiệp, được thúc đẩy bởi thức. Đó là cấu trúc của môi trường. Ảnh hưởng chung của các nghiệp của nhiều chúng sanh tạo thành chính hệ thống thế giớichúng ta sống. Cũng thế, theo Tantra Yoga Tối Thượngthứclướt trên gió là vật chất, mặc dù trong những hình thức vi tế nhất thì gió không được cấu thành bởi các hạt. Do bởi sự liên đới gần gũi giữa gió và tâm như vậy cho nên chúng là một thực thể bất phân, một chúng sanh Giác Ngộ có thể biểu hiện một thân với gió vi tế như nhân chính yếu của nó, một thân vượt khỏi những hạt vật chất như trong trường hợp thọ dụng thân (viên mãn báo thân) của một Đức Phật ở cõi Cực Lạc.

 

Việc áp dụng giáo lý về các nhân chính yếu và những điều kiện bổ trợ cho sự thụ thai, chúng ta có thể thấy rằng vật chất của cha và mẹ - noãn châu và tinh trùng – hoạt động như những nhân chính yếu của thân thể của đứa bé và hoạt động như những điều kiện bổ trợ của tâm. Thời khắc cuối cùng của thứccủa đứa bé trong kiếp trước của nó hoạt động như nhân chính yếu của thứcvào thời điểm thụ thai và như một điều kiện bổ trợ của thân thể. Giống như ở trình độ thô của thân thể - ngay cả phôi thai – được xem như sự hổ trợ vật chất cho thức, cho nên gió mà trên đó thứccưỡi đi, giống như một kỵ mã trên lưng ngựa, là một thực thể vật chất hổ trợ chothức. Mặc dù thứccó thể tách rời khỏi thân thể vật chất, như nó làm khi chúng ta đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, nhưng thức không bao giờ có thể tách rời khỏi trình độ vi tế nhất của của gió (phong đại).

 

Tôi không nghĩ rằng gió rất vi tế, hay năng lượng, có thể được xếp loại như một trong bốn yếu tố - đất, nước, lửa và gió – vì nó vượt khỏi những hạt vật lý. Gió rất vi tế là một khía cạnh chuyển động của gió rất vi tế; nó là cùng thực thể như tâmtương ứng của nó. Thật khó để phân tích gió rất vi tế và tâmvới những khí cụ khoa học; tuy nhiên, có thể phát hiện một cách khoa học sự hiện diện của gió rất vi tế và tâmtrong những trường hợp của sự chết lâm sàng trước khi thứcxuất ra khỏi thân trong khi cơ thể vẫn không phân hủy. Một ít nhà khoa học đã mang một số máy móc đến bệnh viện của chúng tôi, nhưng trong khi họ ở đó, không có ai chết, và rồi khi những người dày dạn kinh nghiệm tâm linh qua đời, thì các máy móc lại không sẳn sàng!

 

Khi gió hay năng lượng mà trên đó nhiều trình độ các loại của thứccưỡi lên, trở nên rất yếu ớt và hòa tan một cách trọn vẹn hơn vào trong thức, thì những trình độ vi tế hơn và vi tế hơn của tâmbiểu hiện. Vào lúc bắt đầu của giai đoạn bốn, khi các làn gió phục vụ như những khung sườn của nhiều thái độ bắt đầu tan rã, thì ở đó xuất hiện đến tâm một hình ảnh như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, thoạt tiên nhấp nháy và rồi ổn định. Hơi thở bên ngoài chấm dứt. Thế giới nói chung xem điều này như thời điểm của sự chết mặc dù nó thật sự đến sau đó. Ở giai tầng này, những trình độ thô của hiện tướng của chủ thể và đối tượng như xa cách và bị chia cắt thành những thực thể tan rã; mắt không thấy các hình sắc hiển thị, tai không nghe các âm thanh, mũi không cảm thấy mùi hương, lưỡi không cảm giác các vị nếm, và thân thể không cảm nhận xúc chạm đối tượng. Bản chất trong sánghiểu biết của tâmnổi lên rõ ràng.

 

Nếu ta có thể chánh niệm lúc chết, việc nhận ra những dấu hiệu của các giai đoạn tan rã và hòa tan, việc duy trì sự tự quan sát nội tâm đủ để cố gắng ở bất cứ trình độ nào của đạo đức mà ta biết, thì sự thực hành của ta sẽ rất mạnh mẽ. Ở mức độ tối thiểu, nó sẽ ảnh hưởng một cách tích cực kiếp sống tới của ta.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-   Mặc dù tâm và vật chất có những nhân chính yếu khác biệt, nhưng chúng tương tác nhau trong nhiều cách.

2-   Sau ba dấu hiệu nội tại của ảo giác, làn khói, và đom đóm, đi đến giai đoạn nội tại thứ tư, vốn giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, mới đầu nhấp nháy và rồi ổn định.

3-   Mặc dù ở thời điểm này hơi thở bên ngoài qua mũi đã dừng và không còn phản ứngý thức đến sự kích thích bên ngoài, nhưng người ấy chưa chết. Thật hữu ích nếu thân thể không bị quấy rầy cho đến khi sự chết hoàn toàn xảy ra.

4-   Việc duy trì chánh niệm, và sự tự quan sát nội tâm vốn giúp chúng ta nhận ra giai đoạn nào của tiến trình nội tại đang xảy ra có thể thúc đẩy cho việc thực hànhảnh hưởng đầy năng lực cho một sự tái sanh tích cực.

 

-***-

 

Ẩn Tâm Lộ , Sunday, August 26, 2018

 

-***-

                                           

HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma 

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01- Tỉnh thức về sự chết
02-  Giải thoát khỏi sự sợ chết
03-  Chuẩn bị cho sự chết
04-  Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05- Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung
06-  Hành thiền trong khi lâm chung
07-  Cấu trúc bên trong
08-  Linh quang của sự chết
09-  Phản ứng với tình trạng trung ấm thân
10-  Đón nhận một sự tái sanh tích cực
11-  Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7309)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4492)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4538)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7273)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12173)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3784)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4171)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3659)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6632)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3974)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4089)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3771)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4506)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3912)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4377)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5376)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3915)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3849)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4794)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4229)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3808)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4169)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6070)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4581)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4138)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5637)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3598)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4009)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4570)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4729)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4513)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4262)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4716)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4475)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7192)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5176)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5586)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5243)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4139)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5984)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4698)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4851)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5458)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5790)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant