Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Trong Trung Quán Luận

02 Tháng Mười 201808:47(Xem: 7366)
Tánh Không Trong Trung Quán Luận
Tánh Không Trong Trung Quán Luận

Liên Đan
Tánh Không Trong Trung Quán Luận


Tánh Không
 là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừaChủ đề này được triển khai và quảng bá suốt dòng lịch sử phát triển của Phật giáo, do đó nó đã ngày càng trở nên tinh tế, sâu sắc và dường như lại càngphức tạp hơn. 


Theo dòng lịch sử phát triển của Phật giáo thì khái niệm về tánh Không luôn giữ một vị trí trọng điểm trong giáo lý và đã được nhiều vị đại sư uyên bác triển khai dưới nhiều gốc độ. Đối với Trung quán,tánh Không là một kinh nghiệm cảm nhận về thực thể tối hậu của mọi hiện tượng. Không dựa vào một tư duy mang tính cực đoannào, không căn cứ vào một quan điểm nào, không đứng vào một vị thế nào thì đấy chính là phương cách giúp thấu triệt được tánh Không. Bởi vì tất cả các pháp từ nhân duyên sanhduyên sanh chỉ là huyễn tướng của sự hòa hợp, bởi thế quán sát cái gọi là tự tính chân thật thì thấy chúng chẳng có mảy may một thực thểnào. Không có cái tự tánh thường trụđộc lập tự thành nên gọi là tính Không. Nhưng tính Khôngkhông phải là sự phủ định nhân quả, mà chỉ muốn nói các pháp đều là giả danh

Tuy nhiên, có một số người lại cho rằng tánh Không trong Đại thừa mang ý nghĩa trống rỗng và hư vô, từ đó cho rằng Phật giáo Đại thừa bác bỏ những giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy trước đó. Có thật tánh Không trong Phật giáo Đại thừa mang ý nghĩa tất cả đều không có? Thật ra nói đếntánh Không thì tài liệu đề cập rõ ràng nhất đó là Trung quán luận, và tác phẩm này cũng đã có rất nhiều người bình giảng. 

Tánh Không là gì? 

Các nhà nghiên cứu chia Phật giáo làm ba thời kỳPhật giáo Nguyên thủyPhật giáo Bộ phái, vàPhật giáo Đại thừa. Khởi nguyên của tánh Không được phát xuất từ khái niệm Không trong Phật giáo Nguyên thủy. Trong kinh tạng Nikaya hay A-hàm, khái niệm Không được Đức Phật mô tả làtrạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về đời sống gia đìnhĐức Phật dạy rằng: Thuở xưa và nay ta nhờ an trú không, nên an trú rất nhiều, ví như lâu đài lộc mẫu này không có voi, bò, ngựa, không có vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỳ-kheo. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại ở đây, vị ấy tuệ tri ‘cái kia có, cái này có’. Cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh không tính1. Nội dung đoạn kinh cho thấy rằng, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải an trú vào Không, thực tập buông bỏ những lo âu phiền lụy về vợ con, ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa… Không là đời sống tu tập không vướng bận, xa lìa ngũ dục, xả bỏ tất cả phiền não hướng đến đời sống phạm hạnhgiải thoát


Đến thời kỳ Phật giáo Đại thừatánh Không được xem là không có thực thể cố định chứ không phải là không có sự hiện hữu của một thứ gì đó. Long Thọ đứng trên lập trường Phật giáo Nguyên thủykế thừa và phát triển thành Duyên khởi tánh Không, với mục đích phê bình tư tưởng các bộ phái, mà cụ thể là Hữu bộ với quan điểm:“Tam thế thật hữupháp thể hằng tồn”2, tức là ba đời quá khứhiện tại và vị lai đều thật có và tất cả các pháp về bản chất là thật có. Hữu bộ chủ trương “nhất thiết hữu”, lấy Duyên khởi làm căn cứ, như giảng sáu nhân bốn duyên, rồi cho rằng những pháp nào do nhân duyên sinh đều là có thật. Long Thọ chỉ ra rằng các pháp là vô tự tánh, là giả danh. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hình thành tư tưởng duyên khởi tánh Không của Long Thọ mà qua đó Trung quán luận được hình thành. 

Như vậy, Long Thọ phê phán những học thuyết sai lầm của các bộ phái để xây dựng lại một nhận thức chân xác về thực tạiHòa thượng Tuệ Sĩ nhận xét vai trò của Long Thọ như sau: “Vai trò củaLong Thọ là phê phán các học thuyết đã có mà tất cả đang lặn hụp trong ngôn từ và khái niệm, kể cả Phật học và cả Bà-la-môn”3. Sự phê phán của Long Thọ dựa trên lý Duyên khởi đưa ta đến một sự nhận thức mới, vượt ra ngoài những tương đãi cục bộ của khái niệm, và liễu tri thực tại tuyệt đốibằng trí tuệ Bát-nhã. Đồng thời Trung quán luận đứng trên lập trường Đệ nhất nghĩa đế để đả phá sự quan sát sai lầm của Đệ nhị nghĩa đế, đặc biệt là căn cứ theo phương pháp biện chứng luận chỉ trích các học phái Tiểu thừa đã lập ra nhiều thuyết mâu thuẫn4

Tánh Không trong Trung quán luận 

Không (sunyata), ở đây không phải là hư không hay không có gì, mà “không” là một sự mô tả bản chất chân thực của sự vật. Bản chất của chúng hoàn toàn do duyên khởi mà có. Chúng như một dòng thác chảy, nhờ sự kết cấu các hạt nước lại tạo nên. Chính vì các bộ phái Phật giáo đã hiểu sai vấn đề khi dựa trên hiện tượng luận để nhận diện sự vật cho rằng Không là không vô sở hữuhay vô thể, nên ngoại đạo lầm tưởng Long Thọ sử dụng pháp biện chứng tánh Không để phủ nhậnthế giới hiện tượngbác bỏ sự hiện có của các đối tượng tri thứcVì vậy đối phương đã đưa ra những lập luận sai lạc: nếu cho tất cả là Không thời suy luận giáo pháp tu tập và đạo quả trở nênvô nghĩa. Ta có thể thấy những sai lầm ấy nơi phẩm 24: Nếu cho rằng tất cả là không, không có tính ở hữu, tức là không sinh không diệt, nên không có Tứ Thánh đế cũng không có bốn quả Sa-môn, không có bốn hướng bốn đắc quả. Tám bậc hiền thánh này không có tức không có Tăng bảo. Vì không có Bốn Thánh đế nên không có Pháp bảo, đã không có Pháp bảo và Tăng bảo thì Phật bảo cũng không. Họ cho rằng Long Thọ là kẻ phá hoại Tam bảo5


Hữu bộ cho rằng nếu tất cả các pháp là không thì không có khái niệm sinh diệtVậy thì sẽ có vấn đề phát sinh trong giáo lý Tứ đếGiáo lý này gồm Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Khổ do Tập sinh ra và do Đạo mà có sự diệt. Vậy nội dung Tứ đế là có khái niệm sinh và diệt, trong khi Long Thọ cho rằng tất cả các pháp là không, như vậy thì chẳng khác nào tất cả các pháp đều không có khái niệm sinh diệt, thế thì Tứ Thánh đế cũng không có. Điều đó cũng đồng nghĩa không có luôn bốn quả vị, và do không có bốn quả vị nên cũng không có người hướng đến bốn quả vị này (Tăng bảo). Rõ ràngLong Thọ là người phủ nhận đạo lý sinh diệt, phủ nhận đạo lý Tứ Thánh đế (Pháp bảo) và phủ nhận luôn cả bốn quả vị, thậm chí phủ nhận sự tồn tại của Tăng bảoVậy thì ông phủ nhận luôn cảPhật bảo, vì ông phủ nhận không có trò thì phủ nhận luôn cả người thầy. Như thế rõ ràng chủ trương tất cả pháp đều không của Long Thọ là chủ trương phá hoại Tam bảoVậy thì ông là ngoại đạo

Trên đây là những câu cật vấn của Hữu bộ đối với Đại thừa (đại diện là Long Thọ). Vậy Long Thọđã phản bác như thế nào. Trong Trung quán luậnLong Thọ nói: “Hiện tại quả thật các người không có khả năng tri nhận được tánh Không và nhân duyên của Không tánh kể cả ý nghĩa của Không tánh nên đã tự mình sinh khởi những não hại!”6. Thuyết tánh Không của Trung quán rất tinh tếvì vậy thường dễ bị hiểu lầm là một phủ định luận. Long Thọ chỉ trích ngoại đạo rằng: 

不能正觀空 
Không thể chánh quán không 
鈍根則自害 
Độn căn tất tự hại 
如不善咒術 
Như chẳng biết chú thuật 
不善捉毒蛇
Không thể bắt rắn độc
Ngài còn nói thêm rằng: 
世尊知是法 
Thế Tôn biết pháp ấy 
甚深微妙相 
Tướng thậm thâm vi diệu 
非鈍根所及 
Độn căn không thể hiểu 
是故不欲說. 
Thế nên chẳng muốn nói7

Đối với những người căn tánh ám độn khi nghe giảng về tánh Không thì sanh tâm điên đảo chấp trước, không hiểu nghĩa không một cách rốt ráo, không có khả năng hiểu được ý nghĩa đệ nhất nghĩa không một cách chân chánh, gây ra hậu quả là tự mình hại mình. Cũng giống như người bắt rắn mà không biết cách thì bị rắn trở ngược lại cắn lấy mình vậy. Ta có thể bắt gặp hình ảnh này qua kinh Ví dụ con rắn: Nếu một người bắt rắn không biết cách, nắm lấy lưng hay đuôi thì sẽ bị nó quay đầu lại cắn7. Điều này chỉ cho ngoại đạo chưa đủ trí tuệ để hiểu giáo lý thâm sâu này. Chínhvì vậy khi chúng ta muốn hiểu được ý nghĩa nào đó một cách chân chánh thì phải nắm ngay ý chính của nó, đừng bao giờ lấy một ý nghĩa khác để hiểu qua một ý nghĩa khác. Tức là chúng taphải nhìn nhận tánh Không một cách chân xác, xác thực nhất. 
Vì vậy mở đầu Thập nhị môn luận Long Thọ chỉ rõ rằng: “Chúng duyên sở sinh pháp, thị tức vô tự tánh”. Tức là các pháp vô tự tánh vì nó được hình thành từ nhiều nhân và duyên. Vì thế tự tánhcủa các pháp là không. “Có” không phải tự nó, mà do tương đãi với những cái không phải nó, vì thế mà các pháp chỉ là giả có. Với nguyên lý nhân duyên, ta biết rằng Có và Không đều là những tương quan đối nghịch: cái này có vì cái kia có. Do đó cần phải vượt ra ngoài cả hai đối nghịch để đi đến một tổng thể trung đạo. Đó chính là: 

眾因緣生法 
Pháp do các duyên sanh 
我說即是無 
Ta nói đó là không 
亦為是假名 
Cũng chính là giả danh 
亦是中道義. 
Cũng là nghĩa trung đạo. 
未曾有一法 
Chưa từng có pháp nào 
不從因緣生 
Chẳng từ nhân duyên sanh 
是故一切法 
Thế nên tất cả pháp 
無不是空者 
Không pháp nào không phải không8

Bài kệ đã trình bày rõ lập trường của Long Thọ. Các pháp được sinh do nhiều nhân duyên tập hợp, nên gọi chúng là Không, là giả danh, mà cũng là Trung đạo. Hẳn nhiên một pháp mà ta quan niệmđược thì nó vừa là nó mà cũng hàm chứa luôn tính chất phi nó. Bởi nếu không hàm chứa tính chấtphi nó thì pháp ấy không bao giờ bị hoại diệt, như vậy thì mắc vào lỗi thường kiến. Nếu nó không phải là nó thì pháp ấy không có một sự kế tục vô gián, thế thì mắc vào lỗi đoạn kiến. Bất thườngbất đoạn ấy là Trung đạo. Chính nguyên lý nhân duyên đã phá vỡ tính chất tương đối và hạn cuộc của ngôn từ và khái niệm. Như vậy, quan niệm nhân quả đồng nhất như Samkhya là phi lý màquan niệm nhân quả dị biệt như Vaisesika cũng phi lý. Nếu nhân quả đồng nhất thì không có sinh ra quả, nhân quả dị biệt thì cũng không thể sinh ra quả. Vậy thì một pháp luôn được nhận thứcbằng ý niệm về một pháp khác với chính nó và đối nghịch với nó. Khái niệm có có mặt là vì có khái niệm về không. Sự mâu thuẫn Có và Không đi đến một tổng đề: phi có phi không, tức bất nhị. Nhưng bất nhị lại đối nghịch với nhị. Cứ thế một pháp luôn luôn ngầm chứa một pháp đối nghịch với nó. Nguyên lý nhân duyên cho ta biết rằng cái này có vì cái kia có. Long Thọ xác quyết mối quan hệ đồng nhất giữa ba phương pháp mô tả duyên khởi: Không, Giả danh, và Trung đạoGiả danh là vấn đề của nhận thức luận liên quan ngôn ngữ và tư duy. Ngài khẳng định: 

是故經中說 
Thế nên trong kinh nói 
若見因緣法 
Nếu thấy pháp nhân duyên
則為能見佛 
Tức được thấy Phật 
見苦集滅道 
Thấy khổ tập diệt đạo9

Lúc này Long Thọ trích dẫn kinh để thuyết minh. Trong kinh Trung bộ Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được ta”10. Như vậyĐức Phật khẳng định rằng duyên khởi là chân lý, là pháp thường trụ của thế gian, nó liên hệ đếnđời sống thường nhật của con người. Nếu ai thông hiểu được pháp nhân duyên này, cũng đồng nghĩa với việc thông đạt được Khổ-Tập-Diệt-Đạo, thì người ấy sẽ được giác ngộ giải thoát, tức là thấy được Phật. Nếu Tiểu thừa chấp nhận giác ngộ giáo lý Tứ đế là thấy Phật, thì Đại thừa chấp nhận quan điểm phải ngộ tánh Không các pháp, vì khi thông hiểu tánh Không các pháp sẽ rõ đượcTứ đế. Vậy không có lý do gì chấp nhận giáo lý Tứ đế mà không chấp nhận tánh Không. Như thế,tánh Không của Trung quán luận đồng nghĩa với Pháp tánhPhật tánhChân như tánh, Duyên khởi tánh. Như hai bài kệ đầu của Trung quán luận đã nói: 

不生亦不滅 
Không sanh cũng không diệt 
不常亦不斷 
Không thường cũng không đoạn 
一亦不異 
Không một cũng không khác 
不 來亦不出 
Không đến cũng không đi11
能說是因緣 
Bậc năng thuyết nhân duyên 
善諸戲論 
Thiện diệt các hý luận 
我首禮佛 
Con cúi đầu lễ Phật 
諸 說中第一 
Bậc nhất trong các thuyết12

Nội dung bài kệ cho ta thấy rằng sự quán chiếu về các pháp trên nhiều phương diện khác nhau. Cặp phạm trù sinh-diệt là sự quán chiếu hiện hữu, thường-đoạn là quán chiếu về mặt thời gian, nhất-dị là quán chiếu về không gian, và lai-xuất là sự quán chiếu quy tắc vận hành. Trong một sát-na là có cả sanh lẫn diệt, chúng đều do nhân duyên hòa hợp mà có. Ngay bài kệ mở đầu đã lột tả được hết tinh túy của bộ luận. Bát bất này còn gọi là Bát bất duyên khởi. Từ duyên khởi mà pháthiện ra chân lý Bát bất, từ Bát bất quán sát thì hiểu được duyên khởi tánh Không, tức là thấy đượcTrung đạoTóm lại, các pháp chỉ là do duyên khởi mà tạo nên, vì duyên khởi nên nó không chân thật, nó chỉ là như huyễnkhông thật có. Như kinh Kim cang nói: 

一切有爲法 
Tất cả pháp hữu vi
如夢幻泡影 
Như mộng, huyễn, bọt, bóng, 
如露亦如電 
Như sương, như chớp lóe, 
應作如是觀 
Hãy quán chiếu như thế. 

Tóm lại, không chính là một thực tại bất khả đắcThực tại đó không nằm trong giới hạn của tri thứccục bộ mà chỉ trực giác bằng trí Bát-nhã, trí tuệ siêu việt mọi ý niệm tương đãi, mọi danh từ ngôn thuyếtTự tánh của các pháp là không. Do tính chất không mà các pháp có thể sinh hóa, hình thành chuyển biến: Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành. Bản tính các pháp làchuyển biến, mà bản thể chính là hiện tượng và cái bất biến chính là cái chuyển biến. Trên phương diện luận lý, không của Long Thọ là một biện chứng phủ định khai thông con đường đi vào thực tại. Chỉ có không, với biện chứng phủ định mới có thể kéo nhận thức ra khỏi vũng lầy của khái niệm vàngôn từVì vậy, khi nói về tánh Không, không có nghĩa là phủ định hết thảy pháp mà hàm ý làthành lập hết thảy pháp. Vì ngoại đạo không khéo hiểu được nghĩa không nên mới vội cho rằng không tức là hư vô, là không có gì như lông rùa sừng thỏ

Kết luận 

Con người đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm cách để hiểu chân diện mục của thế giớiTrải qua mấy ngàn năm lịch sử, các tôn giáohọc thuyết lần lượt ra đời để giải quyết vấn đề trên; và các triết gialuôn khẳng định học thuyết mà mình đưa ra là chính xác. Nhưng có bao nhiêu học thuyết đưa ra thì có bấy nhiêu sự xung đột và mâu thuẫn xảy ra. Đến khi Trung Quán tông xuất hiện, nó đi thẳngvào vấn đề, phá bỏ mọi mô thức khái niệm, xem tất cả là rỗng không, quét sạch những kiến giải hư ngụy bằng học thuyết tánh Không. Triết lý Trung quán của Long Thọ không những chỉ xác định rằng các pháp là không trên khía cạnh hiện tượng mà còn cho rằng bản thể cũng không. Bản thểkhông, hiện tượng không, hữu vi khôngvô vi không, năng tướng không, sở tướng không, tất cả các pháp đều không, là vô tự tính


Tánh Không với hàm ý rằng vạn vật đều không thật có, không có thực thể, không có tự tánh riêng, tất cả các pháp dù là vật chất hay tinh thần chỉ là nhân duyên giả hợpTánh Không không phải làquán chiếu sự vật phi thực một cách tùy tiện, mà đó là sự phô bày bản chất nội tại của chúng. Điều này giải phóng con người ra khỏi mạng lưới rối rắm của những tà kiến và nhận thức sai lầmLý thuyết đầu tiên để chúng ta hiểu được tánh Không chính là duyên khởi, và sự nổi bật của thuyếttánh Không chính là Trung đạoTóm lại, với quan điểm của Trung luận, không thấy nhân duyên thì không thấy được chân lý, không đi đến Niết-bàn, nghĩa là không hoàn thành được lý tưởng Bồ-tát. 
Liên Đan
_________________

(1) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 2, kinh Tiểu không, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr. 433-434. 
(2) Thích Hạnh Bình, “Triết học Có và Không của Phật giáo Ấn Độ”, Nxb.Phương Đông, 2008, tr.113. 
(3) HT.Tuệ Sĩ, Long Thọ và Biện chứng pháp. 
(4) Kimura Taiken, HT.Thích Quảng Độ dịch, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Nxb.Tôn Giáo, 2012. 
(5) HT.Thiện Siêu, Trung luận, Nxb. TP.HCM, 2001, tr.268-269. (6) Sđd, tr.270. 
(7) HT. Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.9-10. 
(8) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, kinh Ví dụ con rắn, tr.177. 
(9) HT.Ấn Thuận, Lược Giảng Luận Trung Quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.10. 
(10) Sđd, tr.12. 
(11) HT.Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, Đại kinh ví dụ dấu chân voi, VNCPHVN ấn hành, tr.422. 
(12) HT.Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình-Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.5. 
(13) Sđd, tr.5.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16649)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8210)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7927)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6845)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8130)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8501)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9578)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9462)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7635)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8202)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8222)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7860)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8363)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9885)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8927)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8700)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 7963)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9872)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9765)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9282)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10185)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14459)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9055)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8521)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9705)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15623)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8119)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11001)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11717)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8787)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9037)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11917)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9361)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21645)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15223)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8612)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9321)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7765)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9332)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9384)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10342)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8817)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14795)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 7983)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8294)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8367)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8793)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9065)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8598)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8146)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7705)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9863)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7882)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7813)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6918)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8711)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8436)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 7953)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7685)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant