Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tánh Không Trong Trung Quán Luận

02 Tháng Mười 201808:47(Xem: 7350)
Tánh Không Trong Trung Quán Luận
Tánh Không Trong Trung Quán Luận

Liên Đan
Tánh Không Trong Trung Quán Luận


Tánh Không
 là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừaChủ đề này được triển khai và quảng bá suốt dòng lịch sử phát triển của Phật giáo, do đó nó đã ngày càng trở nên tinh tế, sâu sắc và dường như lại càngphức tạp hơn. 


Theo dòng lịch sử phát triển của Phật giáo thì khái niệm về tánh Không luôn giữ một vị trí trọng điểm trong giáo lý và đã được nhiều vị đại sư uyên bác triển khai dưới nhiều gốc độ. Đối với Trung quán,tánh Không là một kinh nghiệm cảm nhận về thực thể tối hậu của mọi hiện tượng. Không dựa vào một tư duy mang tính cực đoannào, không căn cứ vào một quan điểm nào, không đứng vào một vị thế nào thì đấy chính là phương cách giúp thấu triệt được tánh Không. Bởi vì tất cả các pháp từ nhân duyên sanhduyên sanh chỉ là huyễn tướng của sự hòa hợp, bởi thế quán sát cái gọi là tự tính chân thật thì thấy chúng chẳng có mảy may một thực thểnào. Không có cái tự tánh thường trụđộc lập tự thành nên gọi là tính Không. Nhưng tính Khôngkhông phải là sự phủ định nhân quả, mà chỉ muốn nói các pháp đều là giả danh

Tuy nhiên, có một số người lại cho rằng tánh Không trong Đại thừa mang ý nghĩa trống rỗng và hư vô, từ đó cho rằng Phật giáo Đại thừa bác bỏ những giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy trước đó. Có thật tánh Không trong Phật giáo Đại thừa mang ý nghĩa tất cả đều không có? Thật ra nói đếntánh Không thì tài liệu đề cập rõ ràng nhất đó là Trung quán luận, và tác phẩm này cũng đã có rất nhiều người bình giảng. 

Tánh Không là gì? 

Các nhà nghiên cứu chia Phật giáo làm ba thời kỳPhật giáo Nguyên thủyPhật giáo Bộ phái, vàPhật giáo Đại thừa. Khởi nguyên của tánh Không được phát xuất từ khái niệm Không trong Phật giáo Nguyên thủy. Trong kinh tạng Nikaya hay A-hàm, khái niệm Không được Đức Phật mô tả làtrạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về đời sống gia đìnhĐức Phật dạy rằng: Thuở xưa và nay ta nhờ an trú không, nên an trú rất nhiều, ví như lâu đài lộc mẫu này không có voi, bò, ngựa, không có vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí do duyên chúng Tỳ-kheo. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại ở đây, vị ấy tuệ tri ‘cái kia có, cái này có’. Cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh không tính1. Nội dung đoạn kinh cho thấy rằng, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải an trú vào Không, thực tập buông bỏ những lo âu phiền lụy về vợ con, ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa… Không là đời sống tu tập không vướng bận, xa lìa ngũ dục, xả bỏ tất cả phiền não hướng đến đời sống phạm hạnhgiải thoát


Đến thời kỳ Phật giáo Đại thừatánh Không được xem là không có thực thể cố định chứ không phải là không có sự hiện hữu của một thứ gì đó. Long Thọ đứng trên lập trường Phật giáo Nguyên thủykế thừa và phát triển thành Duyên khởi tánh Không, với mục đích phê bình tư tưởng các bộ phái, mà cụ thể là Hữu bộ với quan điểm:“Tam thế thật hữupháp thể hằng tồn”2, tức là ba đời quá khứhiện tại và vị lai đều thật có và tất cả các pháp về bản chất là thật có. Hữu bộ chủ trương “nhất thiết hữu”, lấy Duyên khởi làm căn cứ, như giảng sáu nhân bốn duyên, rồi cho rằng những pháp nào do nhân duyên sinh đều là có thật. Long Thọ chỉ ra rằng các pháp là vô tự tánh, là giả danh. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hình thành tư tưởng duyên khởi tánh Không của Long Thọ mà qua đó Trung quán luận được hình thành. 

Như vậy, Long Thọ phê phán những học thuyết sai lầm của các bộ phái để xây dựng lại một nhận thức chân xác về thực tạiHòa thượng Tuệ Sĩ nhận xét vai trò của Long Thọ như sau: “Vai trò củaLong Thọ là phê phán các học thuyết đã có mà tất cả đang lặn hụp trong ngôn từ và khái niệm, kể cả Phật học và cả Bà-la-môn”3. Sự phê phán của Long Thọ dựa trên lý Duyên khởi đưa ta đến một sự nhận thức mới, vượt ra ngoài những tương đãi cục bộ của khái niệm, và liễu tri thực tại tuyệt đốibằng trí tuệ Bát-nhã. Đồng thời Trung quán luận đứng trên lập trường Đệ nhất nghĩa đế để đả phá sự quan sát sai lầm của Đệ nhị nghĩa đế, đặc biệt là căn cứ theo phương pháp biện chứng luận chỉ trích các học phái Tiểu thừa đã lập ra nhiều thuyết mâu thuẫn4

Tánh Không trong Trung quán luận 

Không (sunyata), ở đây không phải là hư không hay không có gì, mà “không” là một sự mô tả bản chất chân thực của sự vật. Bản chất của chúng hoàn toàn do duyên khởi mà có. Chúng như một dòng thác chảy, nhờ sự kết cấu các hạt nước lại tạo nên. Chính vì các bộ phái Phật giáo đã hiểu sai vấn đề khi dựa trên hiện tượng luận để nhận diện sự vật cho rằng Không là không vô sở hữuhay vô thể, nên ngoại đạo lầm tưởng Long Thọ sử dụng pháp biện chứng tánh Không để phủ nhậnthế giới hiện tượngbác bỏ sự hiện có của các đối tượng tri thứcVì vậy đối phương đã đưa ra những lập luận sai lạc: nếu cho tất cả là Không thời suy luận giáo pháp tu tập và đạo quả trở nênvô nghĩa. Ta có thể thấy những sai lầm ấy nơi phẩm 24: Nếu cho rằng tất cả là không, không có tính ở hữu, tức là không sinh không diệt, nên không có Tứ Thánh đế cũng không có bốn quả Sa-môn, không có bốn hướng bốn đắc quả. Tám bậc hiền thánh này không có tức không có Tăng bảo. Vì không có Bốn Thánh đế nên không có Pháp bảo, đã không có Pháp bảo và Tăng bảo thì Phật bảo cũng không. Họ cho rằng Long Thọ là kẻ phá hoại Tam bảo5


Hữu bộ cho rằng nếu tất cả các pháp là không thì không có khái niệm sinh diệtVậy thì sẽ có vấn đề phát sinh trong giáo lý Tứ đếGiáo lý này gồm Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Khổ do Tập sinh ra và do Đạo mà có sự diệt. Vậy nội dung Tứ đế là có khái niệm sinh và diệt, trong khi Long Thọ cho rằng tất cả các pháp là không, như vậy thì chẳng khác nào tất cả các pháp đều không có khái niệm sinh diệt, thế thì Tứ Thánh đế cũng không có. Điều đó cũng đồng nghĩa không có luôn bốn quả vị, và do không có bốn quả vị nên cũng không có người hướng đến bốn quả vị này (Tăng bảo). Rõ ràngLong Thọ là người phủ nhận đạo lý sinh diệt, phủ nhận đạo lý Tứ Thánh đế (Pháp bảo) và phủ nhận luôn cả bốn quả vị, thậm chí phủ nhận sự tồn tại của Tăng bảoVậy thì ông phủ nhận luôn cảPhật bảo, vì ông phủ nhận không có trò thì phủ nhận luôn cả người thầy. Như thế rõ ràng chủ trương tất cả pháp đều không của Long Thọ là chủ trương phá hoại Tam bảoVậy thì ông là ngoại đạo

Trên đây là những câu cật vấn của Hữu bộ đối với Đại thừa (đại diện là Long Thọ). Vậy Long Thọđã phản bác như thế nào. Trong Trung quán luậnLong Thọ nói: “Hiện tại quả thật các người không có khả năng tri nhận được tánh Không và nhân duyên của Không tánh kể cả ý nghĩa của Không tánh nên đã tự mình sinh khởi những não hại!”6. Thuyết tánh Không của Trung quán rất tinh tếvì vậy thường dễ bị hiểu lầm là một phủ định luận. Long Thọ chỉ trích ngoại đạo rằng: 

不能正觀空 
Không thể chánh quán không 
鈍根則自害 
Độn căn tất tự hại 
如不善咒術 
Như chẳng biết chú thuật 
不善捉毒蛇
Không thể bắt rắn độc
Ngài còn nói thêm rằng: 
世尊知是法 
Thế Tôn biết pháp ấy 
甚深微妙相 
Tướng thậm thâm vi diệu 
非鈍根所及 
Độn căn không thể hiểu 
是故不欲說. 
Thế nên chẳng muốn nói7

Đối với những người căn tánh ám độn khi nghe giảng về tánh Không thì sanh tâm điên đảo chấp trước, không hiểu nghĩa không một cách rốt ráo, không có khả năng hiểu được ý nghĩa đệ nhất nghĩa không một cách chân chánh, gây ra hậu quả là tự mình hại mình. Cũng giống như người bắt rắn mà không biết cách thì bị rắn trở ngược lại cắn lấy mình vậy. Ta có thể bắt gặp hình ảnh này qua kinh Ví dụ con rắn: Nếu một người bắt rắn không biết cách, nắm lấy lưng hay đuôi thì sẽ bị nó quay đầu lại cắn7. Điều này chỉ cho ngoại đạo chưa đủ trí tuệ để hiểu giáo lý thâm sâu này. Chínhvì vậy khi chúng ta muốn hiểu được ý nghĩa nào đó một cách chân chánh thì phải nắm ngay ý chính của nó, đừng bao giờ lấy một ý nghĩa khác để hiểu qua một ý nghĩa khác. Tức là chúng taphải nhìn nhận tánh Không một cách chân xác, xác thực nhất. 
Vì vậy mở đầu Thập nhị môn luận Long Thọ chỉ rõ rằng: “Chúng duyên sở sinh pháp, thị tức vô tự tánh”. Tức là các pháp vô tự tánh vì nó được hình thành từ nhiều nhân và duyên. Vì thế tự tánhcủa các pháp là không. “Có” không phải tự nó, mà do tương đãi với những cái không phải nó, vì thế mà các pháp chỉ là giả có. Với nguyên lý nhân duyên, ta biết rằng Có và Không đều là những tương quan đối nghịch: cái này có vì cái kia có. Do đó cần phải vượt ra ngoài cả hai đối nghịch để đi đến một tổng thể trung đạo. Đó chính là: 

眾因緣生法 
Pháp do các duyên sanh 
我說即是無 
Ta nói đó là không 
亦為是假名 
Cũng chính là giả danh 
亦是中道義. 
Cũng là nghĩa trung đạo. 
未曾有一法 
Chưa từng có pháp nào 
不從因緣生 
Chẳng từ nhân duyên sanh 
是故一切法 
Thế nên tất cả pháp 
無不是空者 
Không pháp nào không phải không8

Bài kệ đã trình bày rõ lập trường của Long Thọ. Các pháp được sinh do nhiều nhân duyên tập hợp, nên gọi chúng là Không, là giả danh, mà cũng là Trung đạo. Hẳn nhiên một pháp mà ta quan niệmđược thì nó vừa là nó mà cũng hàm chứa luôn tính chất phi nó. Bởi nếu không hàm chứa tính chấtphi nó thì pháp ấy không bao giờ bị hoại diệt, như vậy thì mắc vào lỗi thường kiến. Nếu nó không phải là nó thì pháp ấy không có một sự kế tục vô gián, thế thì mắc vào lỗi đoạn kiến. Bất thườngbất đoạn ấy là Trung đạo. Chính nguyên lý nhân duyên đã phá vỡ tính chất tương đối và hạn cuộc của ngôn từ và khái niệm. Như vậy, quan niệm nhân quả đồng nhất như Samkhya là phi lý màquan niệm nhân quả dị biệt như Vaisesika cũng phi lý. Nếu nhân quả đồng nhất thì không có sinh ra quả, nhân quả dị biệt thì cũng không thể sinh ra quả. Vậy thì một pháp luôn được nhận thứcbằng ý niệm về một pháp khác với chính nó và đối nghịch với nó. Khái niệm có có mặt là vì có khái niệm về không. Sự mâu thuẫn Có và Không đi đến một tổng đề: phi có phi không, tức bất nhị. Nhưng bất nhị lại đối nghịch với nhị. Cứ thế một pháp luôn luôn ngầm chứa một pháp đối nghịch với nó. Nguyên lý nhân duyên cho ta biết rằng cái này có vì cái kia có. Long Thọ xác quyết mối quan hệ đồng nhất giữa ba phương pháp mô tả duyên khởi: Không, Giả danh, và Trung đạoGiả danh là vấn đề của nhận thức luận liên quan ngôn ngữ và tư duy. Ngài khẳng định: 

是故經中說 
Thế nên trong kinh nói 
若見因緣法 
Nếu thấy pháp nhân duyên
則為能見佛 
Tức được thấy Phật 
見苦集滅道 
Thấy khổ tập diệt đạo9

Lúc này Long Thọ trích dẫn kinh để thuyết minh. Trong kinh Trung bộ Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được ta”10. Như vậyĐức Phật khẳng định rằng duyên khởi là chân lý, là pháp thường trụ của thế gian, nó liên hệ đếnđời sống thường nhật của con người. Nếu ai thông hiểu được pháp nhân duyên này, cũng đồng nghĩa với việc thông đạt được Khổ-Tập-Diệt-Đạo, thì người ấy sẽ được giác ngộ giải thoát, tức là thấy được Phật. Nếu Tiểu thừa chấp nhận giác ngộ giáo lý Tứ đế là thấy Phật, thì Đại thừa chấp nhận quan điểm phải ngộ tánh Không các pháp, vì khi thông hiểu tánh Không các pháp sẽ rõ đượcTứ đế. Vậy không có lý do gì chấp nhận giáo lý Tứ đế mà không chấp nhận tánh Không. Như thế,tánh Không của Trung quán luận đồng nghĩa với Pháp tánhPhật tánhChân như tánh, Duyên khởi tánh. Như hai bài kệ đầu của Trung quán luận đã nói: 

不生亦不滅 
Không sanh cũng không diệt 
不常亦不斷 
Không thường cũng không đoạn 
一亦不異 
Không một cũng không khác 
不 來亦不出 
Không đến cũng không đi11
能說是因緣 
Bậc năng thuyết nhân duyên 
善諸戲論 
Thiện diệt các hý luận 
我首禮佛 
Con cúi đầu lễ Phật 
諸 說中第一 
Bậc nhất trong các thuyết12

Nội dung bài kệ cho ta thấy rằng sự quán chiếu về các pháp trên nhiều phương diện khác nhau. Cặp phạm trù sinh-diệt là sự quán chiếu hiện hữu, thường-đoạn là quán chiếu về mặt thời gian, nhất-dị là quán chiếu về không gian, và lai-xuất là sự quán chiếu quy tắc vận hành. Trong một sát-na là có cả sanh lẫn diệt, chúng đều do nhân duyên hòa hợp mà có. Ngay bài kệ mở đầu đã lột tả được hết tinh túy của bộ luận. Bát bất này còn gọi là Bát bất duyên khởi. Từ duyên khởi mà pháthiện ra chân lý Bát bất, từ Bát bất quán sát thì hiểu được duyên khởi tánh Không, tức là thấy đượcTrung đạoTóm lại, các pháp chỉ là do duyên khởi mà tạo nên, vì duyên khởi nên nó không chân thật, nó chỉ là như huyễnkhông thật có. Như kinh Kim cang nói: 

一切有爲法 
Tất cả pháp hữu vi
如夢幻泡影 
Như mộng, huyễn, bọt, bóng, 
如露亦如電 
Như sương, như chớp lóe, 
應作如是觀 
Hãy quán chiếu như thế. 

Tóm lại, không chính là một thực tại bất khả đắcThực tại đó không nằm trong giới hạn của tri thứccục bộ mà chỉ trực giác bằng trí Bát-nhã, trí tuệ siêu việt mọi ý niệm tương đãi, mọi danh từ ngôn thuyếtTự tánh của các pháp là không. Do tính chất không mà các pháp có thể sinh hóa, hình thành chuyển biến: Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành. Bản tính các pháp làchuyển biến, mà bản thể chính là hiện tượng và cái bất biến chính là cái chuyển biến. Trên phương diện luận lý, không của Long Thọ là một biện chứng phủ định khai thông con đường đi vào thực tại. Chỉ có không, với biện chứng phủ định mới có thể kéo nhận thức ra khỏi vũng lầy của khái niệm vàngôn từVì vậy, khi nói về tánh Không, không có nghĩa là phủ định hết thảy pháp mà hàm ý làthành lập hết thảy pháp. Vì ngoại đạo không khéo hiểu được nghĩa không nên mới vội cho rằng không tức là hư vô, là không có gì như lông rùa sừng thỏ

Kết luận 

Con người đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm cách để hiểu chân diện mục của thế giớiTrải qua mấy ngàn năm lịch sử, các tôn giáohọc thuyết lần lượt ra đời để giải quyết vấn đề trên; và các triết gialuôn khẳng định học thuyết mà mình đưa ra là chính xác. Nhưng có bao nhiêu học thuyết đưa ra thì có bấy nhiêu sự xung đột và mâu thuẫn xảy ra. Đến khi Trung Quán tông xuất hiện, nó đi thẳngvào vấn đề, phá bỏ mọi mô thức khái niệm, xem tất cả là rỗng không, quét sạch những kiến giải hư ngụy bằng học thuyết tánh Không. Triết lý Trung quán của Long Thọ không những chỉ xác định rằng các pháp là không trên khía cạnh hiện tượng mà còn cho rằng bản thể cũng không. Bản thểkhông, hiện tượng không, hữu vi khôngvô vi không, năng tướng không, sở tướng không, tất cả các pháp đều không, là vô tự tính


Tánh Không với hàm ý rằng vạn vật đều không thật có, không có thực thể, không có tự tánh riêng, tất cả các pháp dù là vật chất hay tinh thần chỉ là nhân duyên giả hợpTánh Không không phải làquán chiếu sự vật phi thực một cách tùy tiện, mà đó là sự phô bày bản chất nội tại của chúng. Điều này giải phóng con người ra khỏi mạng lưới rối rắm của những tà kiến và nhận thức sai lầmLý thuyết đầu tiên để chúng ta hiểu được tánh Không chính là duyên khởi, và sự nổi bật của thuyếttánh Không chính là Trung đạoTóm lại, với quan điểm của Trung luận, không thấy nhân duyên thì không thấy được chân lý, không đi đến Niết-bàn, nghĩa là không hoàn thành được lý tưởng Bồ-tát. 
Liên Đan
_________________

(1) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 2, kinh Tiểu không, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr. 433-434. 
(2) Thích Hạnh Bình, “Triết học Có và Không của Phật giáo Ấn Độ”, Nxb.Phương Đông, 2008, tr.113. 
(3) HT.Tuệ Sĩ, Long Thọ và Biện chứng pháp. 
(4) Kimura Taiken, HT.Thích Quảng Độ dịch, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Nxb.Tôn Giáo, 2012. 
(5) HT.Thiện Siêu, Trung luận, Nxb. TP.HCM, 2001, tr.268-269. (6) Sđd, tr.270. 
(7) HT. Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.9-10. 
(8) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, kinh Ví dụ con rắn, tr.177. 
(9) HT.Ấn Thuận, Lược Giảng Luận Trung Quán, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.10. 
(10) Sđd, tr.12. 
(11) HT.Minh Châu dịch, kinh Trung bộ I, Đại kinh ví dụ dấu chân voi, VNCPHVN ấn hành, tr.422. 
(12) HT.Ấn Thuận, Lược giảng luận Trung quán, Thích Hạnh Bình-Quán Như dịch, Nxb.Phương Đông, 2014, tr.5. 
(13) Sđd, tr.5.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1615)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1534)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1479)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1065)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1451)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1390)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1305)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1355)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1685)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1896)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1413)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1414)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1976)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1537)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1366)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1360)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1396)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1700)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1654)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1614)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1455)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2617)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1595)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1394)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1411)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1596)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1532)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1423)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1397)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1496)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2171)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1526)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1472)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1589)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1813)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1502)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1364)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1643)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1382)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1669)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2343)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1930)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1654)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1727)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1597)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1921)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1649)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1707)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1560)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1515)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1306)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1234)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1274)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1507)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant