Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?

27 Tháng Mười Một 201807:24(Xem: 6136)
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Có Nói Về Tứ Thánh Đế Hay Không?
 


Chúc Phú


bai phap dau tien

Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya. Một câu hỏi tưởng như bình thường nhưng để lý giải thỏa đáng là điều không đơn giản. Vì lẽ, trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như. 


Ngay như các nhà nghiên cứu Phật học danh tiếng với những tác phẩmảnh hưởng rộng rãi như Nārada Mahā Thera (1898-1983), Étienne Lammote (1903-1983), Hans Wolfgang Schumann (1928-?)… cũng mặc nhiên thừa nhận giáo lý Tứ Thánh đếbài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân

Thế nhưng trong quá trình nghiên cứu, có một số học giả đã cho rằng, giáo lý Tứ Thánh đế trong bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân đã được bổ sung về sau. Trước hết là quan điểm của học giả Nhật Bản Hajime Nakamura (1912-1999) ở tác phẩm Đức Phật Gotama - một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất1(Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts - 1968). Và gần nhất là ý kiến của tác giả Johannes Bronkhorst trong tác phẩm Hai truyền thống thiền tậpẤn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India - 1986). 
Nghiên cứu lại những vấn đề đã được các học giả tên tuổi đề cập là công việc không giản đơn. Với khả năng hữu hạn và tài liệu hạn chế, chúng tôi sẽ tiếp cận và nỗ lực lý giải vấn đề này, bắt đầu bằng việc khảo lại cơ sở lý luận của hai tác giả vừa nêu. 


Cơ sở lý luận của hai tác giả Hajime Nakamura và Johannes Bronkhorst 
 
Về tác giả Hajime Nakamura 

Hajime Nakamura là một nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếngNhật Bản. Ông có nhiều công trình nghiên cứu Phật họcgiá trị và một trong số chúng chính là tác phẩm Đức Phật Gotama - một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Tác phẩm bao gồm hai tập với tên Anh ngữ là Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Tác phẩm được ấn hành lần đầu tiên vào năm 1968 với phiên bản tiếng Nhật. 

Bản dịch tiếng Việt, phần tập I của tác phẩm này được cư sĩ Trần Phương Lan hoàn thànhấn hành năm 2010. Trong lời giới thiệu ở bản dịch tiếng Việt, Giáo sư Lê Mạnh Thát đánh giá rằng: Trong số các tác phẩm viết về cuộc đời Ngài (Đức Phật - người viết chú) xuất bản trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới thì bộ Đức Phật Gotama gồm hai tập của giáo sư Hajime Nakamure, thuộc Đại học Tokyo của Nhật Bản, theo chúng tôi, là tác phẩm tốt nhất xuất hiện cho tới bây giờ2

Và cũng theo tác giả Lê Mạnh Thát, tác phẩm này cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Một trong những hạn chế, theo phát hiện của chúng tôi, đó là quan điểm về bài thuyết giảng đầu tiên. 

Cụ thể, trong những quan điểm liên quan đến bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật, tác giả Hajime Nakamura chỉ căn cứ vào nội dung bản kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta) và từ đó cho rằng, giáo lý Tứ diệu đế đã được thêm vào về sau. Để khách quan hơn, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn này cùng với sự nhấn mạnh ở định dạng theo nguyên tác tiếng Việt: 

Kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta) hình như là bản kinh cổ nhất trong các bản này và được tin tưởng là đã truyền đạt một phần của pháp thoại đầu tiên. Tuy thế, bản Hán dịch tương đương có tên là kinh La-ma, số 204, của Trung A-hàm nói rằng tại thành Vānārasī Đức Phật thuyết giáo Trung đạoBát Thánh đạo cho năm vị Tỷ-kheo: 

Các ông phải biết rằng có hai cực đoan trong tu hành mà người cầu Đạo không nên theo. Một là con đường dục lạc, thấp hènthô tục, hành nghiệp của người phàm phu thiếu hiểu biết. Đường kia là khổ đau do tự hành hạ thân xác. Chúng không phải là con đường dành cho các bậc trí cầu pháp. Chúng không xứng hợp (với mục đích). Này năm vị Tỷ-kheo (Bhiksu), nếu các ông từ bỏ hai cực đoan này và thực hành Trung đạo, các ông sẽ đạt minh trí, tri kiến, hoàn thành định và giải thoát. Chứng đắc tri kiến, Giác ngộ, Niết-bàn (Nirvana) là Bát Thánh đạo. Có tám chi phần, từ chánh kiến đến chánh định

Vì đoạn này không xuất hiện trong kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta), nó có thể được xem là một sự bổ sung ở thời kỳ sau. Khi kinh ấy được biên soạn, Trung đạoBát Thánh đạo chưa được hệ thống hóa, hay ít nhất là chưa được xem là quan trọng. Tuy thế, vào thời kỳ nguyên bản Sanskrit của kinh La-ma được biên soạn, hai yếu tố này đã được ghép vào pháp thoạiVườn Nai, mặc dù Tứ Thánh đế (Bốn chân lý cao thượng) vẫn chưa được vị biên soạn biết đến! Sự bổ sung Tứ Thánh đế vào pháp thoại này xuất hiện rất lâu về sau. Cũng tương tự như vậy, không một vần thi kệ cổ (gāthā) nào nối liền Tứ Thánh đế, Bát Thánh đạo, hay Trung đạo với pháp thoại này3

Trong phần nội dung bàn về Bài pháp thoại đầu tiên (The First Discourse)4, tư liệu chủ yếu mà tác giả Hajime Nakamura sử dụng bao gồm cổ tích Nidānakathā, kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta), kinh Tập (Sutta Nipāta), kinh Trung A-hàm, luật Tứ phần và kinh Tăng-nhất A-hàm. 

Riêng về quan điểm cho rằng kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta) hình như là bản kinh cổ nhất trong các bản này và được tin tưởng là đã truyền đạt một phần của pháp thoại đầu tiên5. (The Ariyapariyesana-sutta seems to be the oldest of these texts, and it is belived to transmit part of the first discourse)6. Theo chúng tôi, nếu xét theo trật tự thời gian Đức Phật hoằng hóa, thì đây chưa hẳn là bản kinh được thuyết giảng sớm nhất và cổ nhất. 
Vì lẽ, căn cứ vào một chi tiết được ghi nhận ở ngay những dòng đầu của bản kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta), đã phần nào cho thấy điều đó. 

Đó là lời Đức Phật

Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbārāma (Đông viên), ngôi lầu của Migāramatu (Lộc Mẫu giảng đường) để nghỉ trưa7

Theo chú giải kinh Pháp cú (Dhammapada Aṭṭhakatha - DhA.i.413), tinh xá Pubbārāma do bà Tỳ-xá-khư (Visākha) xây dựng. Cần phải thấy, khi Đức Phật thành đạo và đi hoằng hóa, bà Tỳ-xá-khư gặp Đức Phật vào khoảng bảy tuổi (sattavassikakāle). Theo đó, ít nhất phải mười mấy năm sau khi đã ổn định gia thất, chuyển hóa nhà chồng, bà Tỳ-xá-khư (Visākha) mới đủ năng lựcđiều kiện xây dựng tinh xá này cúng dường Đức Phậtchúng Tăng8. Như vậy, xét về niên độ lịch sử, bài kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanā Sutta), được thuyết giảng gần tinh xá Pubbārāma thì chưa phải là một trong những bài thuyết pháp đầu tiên. 

Mặc dù các nguồn tài liệu không mang tính bổ trợ, liên quan; chỉ dựa trên kết quả phán đoán khi so sánh kinh Thánh cầu bản Hán và bản Pāli, nhưng Giáo sư Hajime Nakamura đã cho rằng: Sự bổ sung Tứ Thánh đế vào pháp thoại này xuất hiện rất lâu về sau. (The addition of the Four Noble Truths to the discourse came considerably later)9

Tương tự tác giả Hajime Nakamura khi bàn về nội dung bài pháp đầu tiên, nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất những quan điểm đặc thù, và một trong số chúng là tác giả Johannes Bronkhorst. 

Về tác giả Johannes Bronkhorst Johannes 
Bronkhorst từng là giáo sư tại Đại học Lausanne ở Thụy Sỹ. Do có khả năng về cổ ngữ Sanskrit và Pāli nên ông có nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo sơ kỳ trong liên hệ với các tôn giáo cùng thời. Tác phẩm Hai truyền thống thiền tậpẤn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India) là một trong số những công trình của ông. 

Trong tác phẩm này, Johannes Bronkhorst đã cho rằng, Tứ diệu đế là một giáo lý dường như chưa xuất hiện trong bài giảng đầu tiên. Nguyên văn như sau: 
Điều này dường như chỉ ra rằng ban đầu Tứ diệu đế không nằm trong bài giảng đầu tiên tại Vườn Nai, do đó nó không phải là yếu tố cốt lõi của đạo Phật như quan niệm ngày nay. Ta có thể phỏng đoán rằng một công thức súc tích về Tứ diệu đế như vầy chưa tồn tại, và cũng không nhất thiết là nó đi lệch hướng với nội dung nguyên thủy ban đầu. Nếu Tứ diệu đế chưa có mặt khi bản kinh Chuyển Pháp luân được kết tập lần đầu, thì ta có thể tin chắc là tại thời điểm đó Tứ diệu đế không được coi là yếu tố cấu thành tuệ giác xuất hiện ngay trước thời điểm giác ngộ, và đưa đến giác ngộ (Bản dịch của Kan)10

Trong tác phẩm Hai truyền thống thiền tậpẤn Độ cổ đại (Two Traditions of Meditation in Ancient India), tác giả đã có những so sánh giữa thiền tập Phật giáo và các truyền thống thiền tập khác như Ấn giáo (Hindu) và Kỳ-na giáo (Jain) lúc sơ kỳ. Tuy nhiên, dường như quá chú trọng đến Tứ Thiền (Four Dhyānas) mà tác giả đã trình bày chưa thực sự khách quan về vai trò của Tứ diệu đế11. Ở đây, vấn đề chúng tôi thật sự quan tâm là, tác giả Johannes Bronkhorst cũng cho rằng giáo lý Tứ diệu đế dường như không có mặt trong bài pháp đầu tiên

Từ quan điểm của Giáo sư Hajime Nakamura đến hoài nghi của tác giả Johannes Bronkhorst, đã làm động lực giúp chúng tôi điểm lại những thư tịch liên quan đến bài pháp đầu tiên, cũng như nội dung Tứ Thánh đế trong bài pháp đó. 

Các nguồn thư tịch khả tín liên quan đến bài pháp đầu tiên 

Thư tịch liên quan đến bài pháp thoại đầu tiên cũng như giáo lý Tứ Thánh đế trong bài thuyết giảng đó bao gồm nhiều thể loại như Kinh, Luật, Luận, Sử và có mặt trong cả kinh điển từ Hán tạng cho đến Nikāya. 

Để tiện theo dõi, những tài liệu Hán tạng, chúng tôi đánh ký hiệu là C và những tài liệu thuộc hệ Pāli, chúng tôi đánh ký tiệu là P và sắp sếp theo niên đại.

1- Tư liệu Hán tạng 

C.1. Kinh Phật thuyết Chuyển pháp luân (佛說轉法輪經)12, do ngài An Thế Cao (安世高) dịch vào thời Hậu Hán ở thế kỷ II. 
C.2. Kinh Trung bổn khởi (中本起經)13, quyển thượng, do Sa-môn Đàm Quả (曇果) và Sa-môn Khang Mạnh Tường (康孟詳) dịch vào năm 20714. 
C.3. Kinh Tăng nhất A-hàm (增壹阿含經) tập 14, kinh số 515. Kinh này do Sa-môn Cù-đàm-tăng-già-đề-bà (瞿曇僧伽提婆) dịch vào niên hiệu Long An nguyên niên (隆安元年:397)16
C.4. Kinh Đại trang nghiêm luận (大莊嚴論經), quyển thứ mười do ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什: 334-413) dịch. 
C.5. Kinh Chuyển pháp luân (轉法輪經)17, tức kinh số 379, thuộc tập 15 của bộ kinh Tạp A-hàm (雜阿含經), do ngài Cầu-na-bạt-dà-la (求那跋陀羅) dịch ở thế kỷ thứ V. 
C.6. Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả (過去現在因果經), quyển ba, do ngài Cầu-na-bạt-dà-la (求那跋陀羅) dịch ở thế kỷ thứ V. 
C.7. Kinh Hiền ngu (賢愚經), quyển thứ mười, phẩm Tu-đạt khởi tinh xá (須達起精舍品)18 do Sa-môn Tuệ Giác (慧覺) và cộng sự dịch vào năm thứ sáu (446) niên hiệu Thái Bình Chân Quân (太平真君六年)19
C.8. Kinh Phật thuyết tam chuyển pháp luân (佛說三轉法輪經)20 do ngài Nghĩa Tịnh (義淨:635-713) dịch vào năm thứ tư (710) niên hiệu Cảnh Long (景龍四年)21
C.9. Luật Tứ phần (四分律)22, quyển 32, phần Thọ giới kiền độ, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc-phật-niệm (佛陀耶舍共竺佛念) dịch vào năm thứ mười (409) niên hiệu Hoằng Thủy (弘始十年)23
C.10. Luật Ngũ phần (五分律), quyển 15, phần Thọ giới pháp, do ngài Phật-đà-thập và Trúc-đạo-sanh (佛陀什共竺道生)24 dịch vào năm thứ hai (424) niên hiệu Cảnh Bình (景平). Bản luật này vốn do ngài Pháp Hiển thọ học từ bộ phái Di-sa-tắc25
C.11. Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự (根本說一切有部毘奈耶雜事)26, quyển 19, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào năm thứ tư (710) niên hiệu Cảnh Long (景龍)27
C.12. Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da phá tăng sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事) quyển thứ 6, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào năm thứ hai (711), niên hiệu Cảnh Vân (景雲)28
C.13. Luận Phân biệt công đức (分別功德論)29, quyển thứ hai, không rõ người dịch, niên đại Hậu Hán (後漢:23-220), là bản chú giải bốn phẩm đầu kinh Tăng-nhất A-hàm (增壹阿含經)30
C.14. Luận Đại trí độ (大智度論)31, quyển thứ hai và quyển thứ 86, do ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) dịch vào năm thứ ba (401) niên hiệu Hoằng Thủy (弘始)32
C.15. Luận Du-già-sư-địa (瑜伽師地論)33, quyển 76, do ngài Huyền Tráng (玄奘) dịch vào năm thứ 22 (648) niên hiệu Trinh Quán (貞觀)34
C.16. Luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc (阿毘達磨法蘊足論)35, quyển thứ sáu, do ngài Huyền Tráng dịch vào năm thứ tư (659) niên hiệu Hiển Khánh (顯慶)36
2- Tư liệu Nikāya 
P.1. Kinh Như Lai thuyết (S.v,420), thuộc Tương ưng bộ37
P.2. Kinh Phân biệt về sự thật (M.141), thuộc Trung bộ38
P.3. Đại phẩm (Mahāvagga), chương Trọng yếu39
P.4 Văn bản Nidānakathā40. Tư liệu lịch sử Bi văn Bhabru, hay còn gọi là Bi văn Bairat của vua Asoka41. Phiến đoạn kinh Saṅgīti bằng ngôn ngữ Kharoṣṭhī42

Đánh giá bước đầu về các nguồn thư tịch 

Như vậy, có 16 tư liệu Hán tạng, 4 tư liệu ở tạng Nikāya và 2 tư liệu thuộc bằng chứng lịch sửghi nhận về giáo lý Tứ Thánh đế trong bài thuyết pháp đầu tiên. Nếu cộng thêm cả hai nguồn thư tịch Sanskrit và Tibetan theo khảo cứu của tác giả Norman Joseph Smith43 thì bằng chứng về giáo lý Tứ diệu đế trong bài thuyết giảng đầu tiên rất phong phú

Xét về niên đại, kinh điển Pāli được viết xuống lần đầu tiên do một nhóm các vị Tỳ-kheo tại Aluvihāra, gần Mātale, vào năm 454 sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn (35-32 B.C)44. Một phiến đoạn kinh Saṅgīti bằng ngôn ngữ Kharoṣṭhī viết trên vỏ cây bạch dương (birch bark) có niên đại vào thế kỷ thứ I, được Bảo tàng Anh quốc phát hiện năm 1994 và được Richard Salomon công bố năm 1999 là bằng chứng bổ sung cho thấy sự có mặt của kinh điển bằng chữ viết45. Đáng chú ý là, bản kinh Saṅgīti này theo đối khảo của Richard Salomon thì rất giống với bản kinh Chúng tập (眾集), thuộc bộ Trường A-hàm, ở Hán tạng46. Đây là một tín hiệu đáng mừng về tầm quan trọng của những nguồn thư tịch Hán tạng. 

Ở đây, với những tư liệu Hán tạng có niên đại khá sớm như tư liệu C.1; C.2. C.3 và chú giải bản C.3 là bản C.13, cùng với những tư liệu thuộc tạng Nikāya như bản P.1; P.3… là những bằng chứng quan trọng về sự có mặt của giáo lý Tứ Thánh đế trong bài pháp đầu tiên. Đặc biệt, với những vần kệ cô đọng được Tôn giả A-nan tuyên thuyết theo bản C.14 là bằng chứng chắc thật, cụ thể

Phật tại Ba-la-nại, 
Vì năm vị Tỳ-kheo, 
Khai mở nguồn cam lồ
Giảng pháp bốn chân đế
Khổ, tập, diệt, đạo đế
A-nhã-kiều-trần-như, 
Người đầu tiên thấy Đạo, 
Tám vạn chúng trời, người, 
Chứng quả Tu-đà-hoàn47

Đây là những vần kệ của luận Đại trí độ liên quan đến bài thuyết giảng đầu tiên có niên đại xuất hiện vào thế kỷ thứ II và được dịch sang Hán văn vào năm 40148. Điều này đã góp phần bác bỏ quan điểm của Hajime Nakamura, khi ông cho rằng: không một vần thi kệ cổ (gāthā) nào nối liền Tứ Thánh đế, Bát Thánh đạo, hay Trung đạo với pháp thoại này (None of the ancient verses (gāthā) link the Four Noble Truths, the Eightfod Path, or the Middle Way to the discourse)49

Về phương diện lịch sử, căn cứ vào dòng chữ Vinayasamukase50 do vua Asoka khắc trên bia đá Bairat, giáo sư sử học Ấn Độ Radhakumud Mookerji (1884-1964) đã cho rằng: là một phương cách nhấn mạnh nhằm chỉ cho giáo lý Tứ Thánh đế được Đức Phật giảng dạy trong buổi thuyết pháp đầu tiên tại Sarnath (an expression applied to the Four Noble Truths expounded by the Buddha in his First Sermon at Sarnath)51

Như chúng tôi đã chỉ ra, về phương diện tư liệu, lịch sử, đã có nhiều bằng chứng góp phần chứng minh rằng, giáo lý Tứ Thánh đế là một nội dung quan trọng được giảng dạy trong buổi giảng đầu tiên của Đức Phật. Và bên cạnh những bằng chứng xác đáng đó, việc Đức Phật lựa chọn địa điểm cho buổi thuyết giảng đầu tiên, cũng là một lý do cần quan tâm, làm rõ. 

Vì sao Đức Phật chọn Vườn Nai (鹿野苑) làm nơi chuyển pháp luân? 

Trước hết, về danh từ chuyển pháp luân (轉法輪: dhammacakkaṃ pavatteti). 

Chuyển pháp luân với nghĩa phổ dụng là chuyển vận bánh xe Chánh pháp. Tuy nhiên, trong Đại kinh sư tử hống (Mahāsīhanāda Sutta), ở tạng Nikāya và kinh Thánh đạo (聖道經)52 thuộc bộ Trung A-hàm ở Hán tạng đã sử dụng danh từ chuyển Phạm luân (轉梵輪: brahmacakkaṃ pavatteti). Trong kinh Tăng chi (A.v,32)53 và kinh Tạp A-hàm tương đương trong Hán tạng54 cũng sử dụng danh từ này. Về phương diện ngữ nghĩa, dường như những bản kinh dùng từ chuyển Phạm luân là những bản kinh xuất hiệnthời kỳ đầu, vì trong giao thoa ngôn ngữ vẫn còn chút dấu ấn của văn hóa Vệ-đà55. Tuy vậy, trong những bản luận giải, cả Hán tạng và Nikāya đã có những giải thích tương đồng. 

Theo luận Du-già-sư-địa, quyển thứ 49: 

Sau khi chứng đạo, do lòng ai mẫn bao la nên vì chúng sanh mà khai thị, gọi đó là chuyển Phạm luân (既自證已由哀愍心廣為有情等開示.故名轉梵輪)56

Tương tự, theo Chú giải bộ phân tích (Vibhanga Atthakathā): 

Brahmacakkaṃ pavatteti “Chuyển phạm Luân”: ở đây brahma “vô địch” chính là, chính yếu, cao nhất, tuyệt vời bậc nhất. Nhưng từ cakka này lại mang ý nghĩa như sau: 

thành quả và đặc tướng, 
một phần dáng đi và thế đứng. 
là của thí, kho báu, 
Pháp và bánh xe sắc bén. v.v... 
Được coi như Chuyển pháp luândiễn giải hai cách như vậy57

Như vậy, về mặt văn bản, có những lúc kinh văn dùng từ chuyển Phạm luân hay chuyển Pháp luân, nhưng đều mang ý nghĩa là chuyển vận bánh xe Chánh pháp

Ở đây, dựa trên những lý do nào Đức Phật lựa chọn Vườn Nai làm nơi đầu tiên chuyển pháp luân? 

Cần phải thấy, Đức Phật thành đạo tại thành Già-da (伽耶: Gayā), còn nơi chuyển pháp luân thuộc thành Ba-la-nại (波羅㮏: Vārānasī). Xét về vị trí địa lý, hai địa điểm này xa nhau khoảng 300km, ít nhất phải trải qua hơn mười ngày mới có thể vượt qua đoạn đường đó58. Ở đây, vấn đề được đặt ra là, vì lý do gì mà Đức Phật phải đi một khoảng cách khá xa như vậy để chuyển pháp luân? 

Điều này, tác giả Hajime Nakamura đã hiện đại hóa ý nghĩa qua lý giải sau: 
Đối với Đức Phật, đi đến Vườn Nai để giảng giải tư tưởng của mình cũng giống như một học giả hiện đại trình bày một lý thuyết mới tại một hội nghị quốc gia. Vườn Nai được coi là nơi “hội tụ các ẩn sĩ”; nói cách khác, đó là nơi gặp gỡ của các đạo sĩ tu hành59

Có lẽ quan điểm của tác giả Hijime Nakamura có nguồn cội sâu xa từ ý kinh Phổ diệu. Kinh ghi: 

Khi ấy thần cây Bồ-đề tên là Pháp Minh, cũng gọi là Pháp Lạc, Pháp Ý, Pháp Trì đến bên Đức Phật rồi bạch Phật rằng: 

- Nay Đức Thế Tôn sẽ chuyển pháp luân ở nước nào? 
Khi ấy Phật dạy: 

- Tại Vườn Nai ở xứ tiên nhân, trong nước Ba-la-nại. 
Thọ thần bạch Phật

- Ở xứ tiên nhân trong vườn Lộc uyển, nước Ba-la-nại thì dân chúng quá thưa thớt. Ngài không nên thuyết pháp ở đó. 
Phật dạy thọ thần: 

- Chớ nên nói vậy. Vì sao? Vì trong nhiều đời trước Ta đã xây dựng Pháp điện (法祠) tại nơi đó. Trải qua sáu vạn ức năm, Ta đã cúng dường sáu vạn ức chư Phật Thế Tônvô số tiên nhân đến đó tu học

Ở nước Ba-la-nại chư Thiên, long thần đều tận lực khen ngợi và khể thủ, quy y Đại pháp siêu thế (無極大法). Ngàn ức chư Phật đều nhớ rõ việc này. Tại đây, trong khu rừng ẩn sĩ (神仙樹木), Ta sẽ chuyển bánh xe pháp, giữa không gian vắng lặng, tịch nhiên, không có những loại người tối tăm, vô trí. Với những nghĩa đó, Ta sẽ chuyển pháp luân, trong khu rừng ẩn sĩ60

Tương tự, việc lựa chọn nơi hội tụ của các ẩn sĩ để trình bày sự chứng ngộ của Đức Phật như tiếng rống của loài sư tử (Sīhanāda: 師子吼) nhiếp dẫn các loài thú, như sự ghi nhận của kinh Tập (Sn. 131): 

Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài loài Người tối thắng
Bậc Ngưu vương loài Người
Thượng thủ mọi sanh loại; 
Ngài sẽ chuyển Pháp luân
Trong khu rừng ẩn sĩ
Rống tiếng rống sư tử
Hùng mạnh nhiếp loài thú61

Như vậy, việc lựa chọn địa điểm để chuyển pháp luân là một việc làm thấm đẫm tuệ giác của Đức Phật. Từ logic nội tại đó cho thấy, trong buổi thuyết pháp đầu tiên này, các quan điểm cơ bản nhất, quan trọng nhất mà Ngài đã chứng ngộ, sẽ được trình bày. Và do vậy, không vì lý do gì mà giáo lý Tứ Thánh đế không được trình bày trong thời pháp quan trọng này. 

Nhận định 

Từ những bằng chứng quan trọng và khả tín từ Hán tạng đến Nikāya, trải đều trên các nguồn thư tịch như Kinh, Luật, Luận, Sử; từ lý do cân nhắclựa chọn địa điểm để chuyển pháp luân, đã góp những bằng chứng quan trọng để khẳng định rằng, giáo lý Tứ Thánh đế đã có mặt trong bài thuyết giảng đầu tiên. 

Tư liệu làm cơ sở để đưa ra nhận định giáo lý Tứ Thánh đế không có mặt trong bài pháp đầu tiên của Giáo sư Hajime Nakamura căn cứ vào bản kinh Thánh cầu. Xét về nội dung, đây chỉ là bài kinhĐức Phật đã kể lại một phần của con đường giác ngộ, và trọng tâm chủ yếu đề cập đến hai loại tầm cầu, Thánh cầu và phi Thánh cầu (ariyā ca pariyesanā, anariyā ca pariyesanā). Xét về lịch sử, bài kinh này được thuyết giảng rất lâu sau khi Ngài chứng ngộ. Bối cảnh hồi ức về con đường khổ tu, chứng ngộthuyết giảng của Đức Phật cũng có thể tìm thấy trong bài kinh Bồ-đề vương tử (M.85), cũng thuộc Trung bộ62

Căn cứ vào lịch sử truyền dịch kinh điển, người có khả năng nắm giữ kinh điểntrùng tụng lại được gọi là Bhāṇaka. Việc cất giữ kinh điển bằng trí nhớ không phải là điều kiện tối ưu để giữ gìn tính toàn vẹn về giáo pháp. Câu chuyện nhầm lẫn về hình ảnh con cò trắng (水白鶴: baka) và pháp sanh diệt (生滅法: udayavaya63), trong câu kinh Pháp cú (Dhp.113) do sự nhầm lẫn giữa hai hợp âm (baka-vaya), được ghi lại trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự64 là bằng chứng cho thấy, không đối chiếu kinh điển thì dễ rời xa lời dạy của Đức Phật

Chúng tôi xin dẫn lời của ngài Long Thọ (龍樹) trong tác phẩm luận Đại trí độ (大智度論) như một sự tái khẳng định và xem đó là lời kết thúc chuyên khảo này: 

Như trong kinh Chuyển pháp luân nói: Sau khi nhận hiểu khổ đế, gọi là bậc kiến đạo; kiến đạo rồi thì phân biệt hiểu biết. Khổ đế là pháp cần thấy. Tập đế là pháp nên đoạn. Diệt đế là pháp phải chứng. Đạo đế là pháp nên tu65

 Chúc Phú
__________________
(1) Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama- một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan dịch. NXB.Phương Đông, 2010. 
(2) Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama - Một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan, dịch. NXB.Phương Đông, 2010, tr.15. 
(3) Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama - Một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan dịch. Nxb.Phương Đông, 2010, tr.355-356. Có thể tham chiếu bản Anh ngữ: Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p.247-248. 
(4) Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002.p. 241. 
(5) Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama - Một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan dịch. NXB.Phương Đông, 2010, tr.355. 
(6) Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002. p. 247. 
(7) Kinh Trung bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.211 
(8) Tích truyện Pháp cú, tập 1, Viên Chiếu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.374-398. 
(9) Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002. p.248. 
(10) Phần này nằm trong bài viết: Duyên hợp - tinh túy của đạo Phật (4): chương 3. Xem tại: https://kienngot.wordpress.com/2011/10/10/duyen-h%E1%BB%A3p-tinh-tuy-c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A1o-ph%E1%BA%ADt-4-ch%C6%B0%C6%A1ng-3/#more-706. Nguyên tác: This seems to indicate that initially those Four Noble Truths were not part of the sermon in Benares, and consequently not as central to Buddhism as they came to be. We may surmise that the concise formulation of the teaching of the Buddha in shape of the Four Noble Truths had not yet come into being, not necessarily that the content of this teaching deviated from what they were meant to express. If then the Four Noble Truths did not yet exist when the primitive version of what came to be known as Dharmacakrapravartana Sutra was composed, we can be sure that in that time they were not considered as constituting the insight which immediately preceded and brought about liberation. 
(11) Johannes Bronkhorst. The Two Traditions of Meditation in Ancient India. Delhi: Motilal Banarsidass. 2000. p. 79. Cf: Recognition of the Four Noble Truths culminates in knowledge of the path leading to the cessation of suffering. This is useful knowledge for someone who is about to enter upon this path, but it is long overdue for someone at the end of the road. Knowledge of the path must and does precede a person commencing upon it. This also applies to the Buddha himself. In the passage which we studied above (§ 1.5, MN I. 246-47) we were told that the Bodhisattva remembered how once in his youth, he reached the First Dhyāna and wondered if this could be the road towards enlightenment. The text then continues: “following this memory I had this knowledge: ‘This is really the road towards enlightenment’.” In other words, also the Bodhisattva knew the path he was to traverse, and knowledge of the Four Noble Truths could not thereafter bring him anything new. 
(12) 大正藏第 02 冊 No. 0109 佛說轉法輪經. 
(13) 大正藏第 04 冊 No. 0196 中本起經, 卷上.
(14) Nguyên văn: 建安十二年. Xem tại: 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第一. 
(15)大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第十四, 五. 
(16) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第三. 
(17) 大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第十五. 
(18) 大正藏第 04 冊 No. 0202 賢愚經,卷第十. 
(19) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第六. 
(20)大正藏第 02 冊 No. 0110 佛說三轉法輪經. 
(21) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第九. 
(22) 大正藏第 22 冊 No. 1428 四分律. 
(23) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四. 
(24) 大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第十五. 
(25) 大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第十五. 
(26) 大正藏第 24 冊 No. 1451 根本說一切有部毘奈耶雜事, 卷第十九. 
(27) 大正藏第 55 冊 No. 2152 續古今譯經圖紀. 
(28) 大正藏第 55 冊 No. 2157 貞元新定釋教目錄, 卷第二十三. 
(29) 大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論. 
(30) 大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第四. Nguyên văn: 分別功德經五卷(一名增一阿含經疏迦葉阿難造). 
(31) 大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二. 
(32) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四. 
(33) 大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第七十六. 
(34) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第八. 
(35) 大正藏第 26 冊 No. 1537 阿毘達磨法蘊足論, 卷第六. 
(36) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第八. 
(37) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr. 783-785. 
(38) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.589-593. 
(39) Đại phẩm, tập 1, Tỳ-khưu Ondacanda, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.14-21. 
(40) The Pāli Text Society. The Jātaka together with its commentary, being tales of the anterior births Gotama Buddha. Vol 1. Edited by V. Faus Boll. London: Messrs. Luzac and Company, Ltd. 1962. p.82. 
(41) P.118. 
(42) Richard Salomon. Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara. Seattle: University of Washington Press. 1999. p.89. 
(43) Norman Joseph Smith. The 17 versions of the Buddha’ First Discourse. (JIABS). University of Queensland. 2001. 
(44) Lamotte, Étienne. History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988. p. 558. 
(45) Richard Salomon. Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara. Seattle: University of Washington Press. 1999. 
(46) Ibid, p.174-175. 
(47) 大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二. Nguyên văn: 佛在波羅柰,佛為五比丘,初開甘露門,說四真諦法:苦集滅道諦.阿若憍陳如,最初得見道,八萬諸天眾,皆亦入道迹. 
(48) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四. 
(49) Hajime Nakamura. Gotama Buddha: A biography based on the most reliable texts. Vol 1. Tokyo: Kosei Publishing Co. 2002. p. 248. 
(50) Cunningham, Alexander. Corpus Inscriptionum Indicarum: Inscriptions of Asoka. Vol. I. Calcutta: Office of the Superintendent of Government Printing. 1877. p. 97. 
(51) Radhakumud Mookerji. Asoka. London: Macmillan and Co, 1928. p.118. 
(52) 大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 卷第四十九, 聖道經. 
(53) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr. 553-555. 
(54) 大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第二十六, 六八四. 
(55) Arthur Berriedale Keith. The religion and philosophy of the Veda and Upanishads. Part II. London: Humphrey Milford. 1925. p.550. 
(56) 大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第四十九. 
(57) Āriya Dhammapāla, Chú giải bộ Phân tích (Vibhanga Atthakathā), tập 1-2, Tỳ-kheo Siêu Minh dịch, NXB.Tổng Hợp TP.HCM, 2007. tr.796. 
(58) Hajime Nakamura. Đức Phật Gotama - Một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất. Trần Phương Lan dịch. NXB.Phương Đông, 2010, tr.345. 
(59) Ibid. 
(60) 大正藏第 03 冊 No. 0186 普曜經, 卷第七. Nguyên văn: 時佛樹神名曰法明, 又名法樂, 又名法意, 又名法持, 往到佛所前白佛言: 今佛世尊, 當於何國而轉法輪? 時佛告曰: 在波羅奈仙人之處鹿苑之中. 樹神白佛: 波羅奈國仙人之處鹿苑之中, 人民尠少不可說法.佛告樹神: 勿說此言.所以者何? 我宿命時在中建立法祠,六萬億載在中供養六萬億諸佛世尊,及若干種仙人,學遊居其中. 波羅奈國諸天龍神所共嗟歎, 無極大法稽首歸命, 千億諸佛悉念本末, 在此神仙樹木之間,應轉法輪.寂然惔怕,不覩無智暗冥之黨, 以此之故, 在此神仙樹木之間而轉法輪. 
(61) Kinh Tiểu bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.466. 
(62) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr. 119-124. 
(63) Barua, Beni Madhab, M.A. Prakit Dhammapdada - Based upon M. Senart’s Kharoṣṭhī manuscript with text, translation & notes. University of Calcutta. 1921. p. 61. 
(64) Tôn giả A-nan thấy một vị Tỳ-kheo cứ mãi đọc tụng: Nếu người sống trăm năm/ Không thấy con cò trắng/ Chẳng bằng sống một ngày/ Được thấy con cò trắng (若人壽百歲,不見水白鶴./不如一日生,得見水白鶴). Nghe xong, Tôn giả quá đỗi ưu tư và đã yêu cầu sửa lại: Nếu người sống trăm năm/ Không rõ pháp sanh diệt/ Chẳng bằng sống một ngày/ Được rõ pháp sanh diệt (若人壽百歲,不了於生滅./不如一日生,得了於生滅). Xem tại: 大正藏第 24 冊 No. 1451 根本說一切有部毘奈耶雜事, 卷第四十. 
(65)大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第八十六. Nguyên văn: 如 “轉法輪經” 中說:苦諦知已應見;知已分別知,是法應見,是苦諦;是法應斷,是集諦;是法應證,是滅諦;是法應修,是道諦.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9441)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9337)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7534)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8125)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8095)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7778)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8282)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9773)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8828)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8591)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 7878)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9764)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9673)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9198)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10091)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14317)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 8964)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8449)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9618)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15377)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8038)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 10913)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11573)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8705)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 8939)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11782)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9263)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21533)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15123)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8517)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9225)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7658)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9232)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9280)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10224)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8735)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14620)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 7873)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8188)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8274)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8662)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 8946)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8479)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8063)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7608)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9746)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7790)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7722)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6834)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8616)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8339)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 7856)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7572)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6813)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13692)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7413)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9169)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7739)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7641)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7222)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant